Thứ Tư, 23 tháng 9, 2015

Nghĩ về tấm bia căm thù

RFA
front_2
                               Bia căm thù trước tổng Lãnh Sự Quán Mỹ tại Sàigòn. RFA photo 

(RFA)-Tròn 14 năm trước ngày 11/9/2001, Hoa Kỳ và thế giới tự do bàng hoàng rúng động bởi vụ đánh bom tòa tháp đôi World Trade Center. Vâng, thế giới tự do của những người yêu chuộng tự do mới bàng hoàng, còn tại các nước cộng sản và độc tài thì không hẳn như vậy, nếu không muốn nói là ngược lại.
Xin miễn bàn về các nước đang nuôi dưỡng và chứa chấp bọn khủng bố. Tại Trung Quốc, tướng Lưu Á Châu kể lại: "Nước ta (tức Trung Quốc) có một đoàn đại biểu, lúc đó đang ở thăm nước Mỹ, lúc xem tòa nhà thương mại thế giới bị máy bay bọn khủng bố đâm vào, những người trong đoàn tham quan liền không kìm được cảm xúc, đứng dậy vỗ tay hoan hô." (!)
"Tôi ở Bộ tư lệnh Không quân đóng tại quân khu Bắc Kinh, vào những ngày đó có bộ đội tới thăm, tôi đều hỏi họ có cái nhìn như thế nào về vụ 11 tháng 9? Họ đều có một câu đáp án như nhau “Khủng bố đánh rất tốt”. Sau đó tôi nói “chuyện này rất bi thảm. Nếu như những người này yêu Trung Quốc, thì còn ai có thể cứu được Trung Quốc?"Còn ở Việt Nam, khi sự kiện 11/9 vừa được các hãng thông tấn lớn loan tải, lúc đó muốn vào mạng xem tin tức chỉ có cách ra những quán cafe internet để theo dõi. Tại một diễn đàn online lớn nhất Việt Nam khi ấy là diễn đàn ttvnol (Trí Tuệ Việt Nam Online) mà thành viên đa số là những trí thức, sinh viên sống ở Hà Nội. Khi nhìn qua màn hình computer thấy cảnh tòa nhà World Trade Center bị đổ sụm do chiếc phi cơ đâm vào nhiều sinh viên đã rú lên vì sung sướng, thế rồi họ truyền tin cho nhau với thái độ đắc chí. Họ đua nhau bình phẩm và chờ đợi sự "giãy chết" của Hoa Kỳ. Lạ một điều, những sinh viên ấy hầu hết lớn lên khi chiến tranh đã chấm dứt. Hàng ngày họ vẫn uống Coke, vẫn chuộng những chiếc quần Jeans hiệu Levi's và săn lùng những hàng hóa "made in USA" từ chiếc computer cho đến đôi giày thể thao.

NGỤY TẠO LỊCH SỬ ĐỂ GỠ TỘI BÁN NƯỚC TỪ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NAY

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 30.08.2015
Facebook : Phuc Lien Nguyen

CSVN đã chính thức tôn vinh Mạc Đăng Dung bằng hai đường phố Hà Nội với  tên Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông. Việc tiếm quyền Nhà Lê có thể coi như việc thay đổi triều đại nội bộ. Nhưng cái tội lớn nhất của chính Mạc Đăng Dung là phản quốc một cách hèn hạ, nhục nhã, không xứng đáng mang tên của một con đường để nhắc nhở cho hậu thế. Suốt chiều dài Lịch sử những ngàn năm, Dân Tộc Việt luôn luôn bị đe dọa, rồi bị xâm lăng bởi Bắc Phương. Dân Tộc Việt cần phải có những anh hùng bất khuất để có thể giữ gìn vẹn toàn lãnh thổ, giòng giống, tiếng nói Việt cho đến ngày nay.

Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa… bị chiếm đóng lúc này. Trên đất liền, đảng CSVN đã bán cho Tầu những khu kinh tế. Việc Tầu  chiếm đóng từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau đã rõ rệt thành hình da báo. Hội nghị Thành Đô đang đe dọa biến Việt Nam thành một tỉnh của nước Tầu. Xâm lăng Kinh tế còn trầm trọng hơn nữa : hàng hóa Tầu tràn ngập Việt Nam làm tê liệt mọi ngành sản xuất.

Mối đe dọa mất nước như gần kề khó tháo gỡ. Chính trong lúc ấy thì đảng CSVN lại muốn xây 58 tượng đài Hồ Chính Minh, một người Tầu hay một người Việt phản quốc bán đất biển. Chúng tôi nhớ lại việc con hát Cộng sản đã sang Tầu trước đền Mã Viện, đã đóng tuồng như nhạo báng Hai Bà Trưng. Một nhà Sư quốc doanh đã công kích LÝ THƯỜNG KIỆT « vô lễ » dám mang quân tấn công địch trên đất Tầu. Rồi ngày nay, đảng CSVN lại tôn vinh Mạc Đăng Dung, một kẻ không còn thể diện đem đất và dân dâng cho quan Tầu.

CSVN như mang mặc cảm tội lỗi bán đất và biển cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, nay sử dụng ngụy biện Lịch sử để mong xóa cái tội Trời không tha, Đất không dung của mình.


Bản Tin Lễ đặt tên đường
Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông

Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2015

Nghề ăn cắp của người Việt ở Đức

Phạm Thị Hoài: Nghề ăn cắp của người Việt ở Đức


Đây là Con cháu bác Hồ nổi danh ở hải ngoại ?(Hải)
Đây là con Ngụy:
 Vô đây xem con cháu bọn Ngụy ở Hải Ngoại

Ảnh mang tính minh họa
Có lần tôi đi một phiên tòa xử nhanh hai thanh niên Việt Nam ăn trộm trong cửa hàng. Một chàng diện Nike Air Max chói chang Một chàng quần bò Dolce Gabbana rất xước. Cả hai đều mới
sang Đức hai tuần trước, đơn xin tị nạn còn chưa nộp. Họ ăn trộm phụ kiện, nước hoa và mỹ phẩm trị giá gần 1000 Euro, trong một cửa hàng mà họ hiển nhiên là những vật thể lạ. Xã hội tư bản tân tiến một thế kỷ rưỡi sau Marx đã xóa đi nhiều ranh giới giữa các giai cấp đối kháng, song lại mở rộng khoảng cách giữa các đẳng cấp. Hai thanh niên Nghệ An này chỉ cần đặt một nửa bàn chân vào cửa hàng đó là toàn hộ hệ thống báo động của nó đã đỏ rực. Hình phạt cho mỗi chàng là một cuối tuần quản thúc, tức chiều tối thứ Sáu khăn gói đến Nhà Quản thúc Thanh thiếu niên ở, chiều tối Chủ nhật được về. Đại diện tư pháp cho thanh thiếu niên cằn nhằn rằng thế hơi nặng, phạt lao động công ích là đủ rồi. Công tố viên nhún vai. Thẩm phán thở dài, biết rằng sớm muộn cũng gặp lại họ, nhiều phần sớm hơn phần muộn.

TRUNG CỘNG Kế Hoạch XÓA SỔ VIETNAM trên bản đồ thế giới

TRUNG CỘNG MUỐN XÓA SỔ VIETNAM trên bản đồ thế giới

• 3.000.000 người VN thiệt mạng ( thực tế, con số nầy trên 4.000.000 người chết).
• 4.400.000 người VN tàn phế bởi chiến tranh.
• 2.000.000 người nhiễm chất độc hóa học..
• 10 năm sau năm 1975, có gần 5.000.000 trẻ em dị dạng vì hậu quả chiến tranh.

vc-tho

Nguyễn Vĩnh Long Hồ
SÁCH LƯỢC CỦA MAO TRẠCH ĐÔNG DÙNG NGƯỜI VIỆT GIẾT NGƯỜI VIỆT:
Ngay từ thời CHIẾN TRANH VIỆT NAM, Mao Trạch Đông ngoài việc tranh giành uy thế lãnh đạo trong khối ĐỆ TAM QTCS với Liên Xô, TC cung cấp, yểm trợ các loại chiến cụ, quân trang, quân dụng to lớn cho CSVN với hình thức bán chịu lên tới con số không lồ 20 tỷ USD (thời giá lúc bấy giờ) và điều động 327.000 QĐNDTQ tới Bắc Việt, chỉ làm nhiệm vụ “giữ nhà” để Hà Nội rảnh tay dồn hết các đơn vị CSBV vào xâm lược MNVN. Ý đồ bẩn thỉu và thâm độc của Mao và bọn Trung Nam Hải đã triệt để lợi dụng sự ngây thơ, khờ dại của Hồ Chí Minh và Đảng CSVN trong quyết tâm “ĐÁNH MỸ ĐẾN NGƯỜI VIỆT NAM CUỐI CÙNG” và “DÙNG NGƯỜI VIỆT GIẾT NGƯỜI VIỆT” (Dỉ Việt chế Việt). Tên Việt Gian Hồ Chí Minh và cái ĐCSVN chết tiệt đã xóa sạch nguyên cả thế hệ thanh thiếu niên Việt Nam yêu nước đã bị HCM triệt để lợi dụng để phục vụ cho tham vọng BÀNH TRƯỚNG BÁ QUYỀN của Trung Cộng.

Ý đồ của Mao Trạch Đông là muốn Hồ Chí Minh dùng chiến tranh du kích, “TRƯỜNG KỲ KHÁNG CHIẾN” để kéo dài cuộc chiến tranh “NỒI DA XÁO THỊT” cho đến khi Việt Nam kiệt quệ hoàn toàn, chiến tranh càng kéo dài, càng có lợi cho Trung Cộng, từ đó dễ bề thôn tính VN sau nầy để làm ban đạp, bành trướng xuống vùng Đông Nam Á Châu, nuốt chửng Hoàng Sa trước, vói tay xuống quần đảo Trường Sa của VN sau nầy.
Kết quả thê thảm của cuộc chiến tranh “CỐT NHỤC TƯƠNG TÀN” do HỒ CHÍ MINH VÀ ĐCSVN lãnh đạo gây ra. Ngày 16 tháng 6 năm 1997, Hà Nội tổng kết cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm theo đúng ý đồ của Mao & ĐCSTQ và Thông Tấn Xã Nhà nước CSVN công bố như sau:
• 3.000.000 người VN thiệt mạng ( thực tế, con số nầy trên 4.000.000 người chết).
• 4.400.000 người VN tàn phế bởi chiến tranh.
• 2.000.000 người nhiễm chất độc hóa học..
• 10 năm sau năm 1975, có gần 5.000.000 trẻ em dị dạng vì hậu quả chiến tranh.
Những con số thương vong to lớn nầy, tự nó đã vạch ra sự thật về sự tuyên truyền khoác lác về kỳ tích chiến thắng ba đế quốc sừng sỏ Nhật, Pháp, Mỹ do HCM & ĐCSVN lãnh đạo.

Thứ Ba, 15 tháng 9, 2015

THẮP NÉN HƯƠNG NHÂN NGÀY GIỖ TỔNG THỐNG NGUYỄN VĂN THIỆU

http://baotoquoc.com/2015/09/13/thap-nen-huong-nhan-ngay-gio-tong-thong-nguyen-van-thieu/

* Ngày 29-9 năm nay đã là ngày giỗ thứ 14 của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.  Cho tới trước khi chết ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đã làm cho mất nước, một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một người không thể nào gánh vác.  Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu thì quả là vô lý, thế nhưng ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm. 
Phải chăng là Mỹ bỏ rơi ?
Kể từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu chiến binh tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3.000 quân nhân còn mất tích. Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ lỗi cho nhau.
Chính vì vậy mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải chết tới 58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
Hai chữ “bỏ rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của người Việt sau khi Mỹ cắt ông tiếp huyết cho VNCH.  “Bỏ rơi đồng minh” khác với “phản bội đồng minh”.  Bỏ rơi có nghĩa là tôi thích thì tôi giúp, khi thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp nữa.  Còn phản bội là phỉnh gạt, lừa đảo.  Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ bỏ rơi VNCH còn hơn là nhận phản bội VNCH.
Frank Snepp, tháng 3 năm 1973
Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định làm đơn xin đầu quân vào CIA để tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại VN.  Năm 1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại chi nhánh CIA tại  Sài Gòn trong tư thế một nhân viên mới vào nghề.  Năm 1971 ông trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc Việt.
Đến năm 1972 ông bị đày đi VN vì tội đã báo trực tiếp cho Tòa Bạch Ốc một thông tin ông đọc được trên báo của Hà Nội mà không qua các xếp lớn của CIA.  Nhiệm vụ lần thứ hai của Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt Nam.  Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ.
CIA đã đưa ông ra tòa vì ông đã hành động trái với lời tuyên thệ khi ông bước chân vào tổ chức CIA.  Tòa án đã phán quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí mật nghiệp vụ nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent Interval” của Frank Snepp.  Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực hình thức bởi vì cả thế giới đều đã đọc Decent Interval.
Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp định Paris.  Rồi 3 tháng sau khi ký kết hiệp định, Tổng thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker.Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin :
“Mỹ buộc phải bò khỏi Việt Nam trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải có một chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ. ( Trang 75, nguyên văn :  “The United States was obliged to crawl out of Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind of conjuring and stagecraft at which Martin so adept” ).  Như vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.
Nixon thất hứa với Liên Xô, tháng 8 năn 1974
Năm 1974, giữa năm, Tổng thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc hội Mỹ bản dự thảo hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên Xô.  Đến lúc này Quốc hội Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước ngưng bắn 1973.  Dĩ nhiên khi đưa ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được thông qua dễ dàng vì lợi ích chung của cả hai nước, nhất là từng bước giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ mong chờ.
Tuy nhiên ông đã tính lầm , Quốc hội Mỹ đoán rằng còn nhiều cái giá khác nữa giữa Nixon và Liên Xô, Trung Quốc, Hà Nội vào năm 1972.  Vì vậy Quốc hội bác bỏ thẳng thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải lòi ra những thỏa thuận khác.  Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền hành pháp để từ chối.
Vì vậy Quốc hội có một cách khác để moi ra những gì mà Nixon đã cam kết với LX, TQ và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy ban điều tra đặc biệt về sai phạm của Nixon trong vụ nghe lén,  nhờ đó công tố viên của ủy ban điều tra có quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa, và cả Hà Nội.
Nixon chỉ còn có cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và Kissinger đã có những thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép Quốc hội.  Một khi ông từ chức thì những cam kết của ông trở thành vô hiệu lực.  Quốc hội sẽ không còn cớ để truy xét.
Sau khi Nixon từ chức thì Quốc hội Hoa Kỳ cho thông qua đạo luật cấm HK buôn bán với các nước Cọng sản vào cuối năm 1974 ( Đạo luật Jackson-Vanik ).  Sự trở mặt của Quốc hội Mỹ đã khiến Liên Xô tức giận bởi vì những cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đã không được thi hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại tướng Kulikov của Liên Xô đến Hà Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí.
Hà Nội cay đắng 
Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp định Paris thì Hà Nội ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô kiện, trao trả tù binh VNCH để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt.  Trong khi đó Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ.
Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam.  Biên giới hai miền Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như Hiệp định Geneve 1954.
Nhìn bề mặt của Hiệp định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát quốc tế thừa biết bên trong phải có một mật ước riêng.  Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng thống Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng sau Hiệp định Paris được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết Hiệp định Paris 1973.  Và tháng 10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon-Phạm Văn Đồng.
Theo đó thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD, và viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD.  Trong vòng 30 ngày sau khi người tù binh HK cuối cùng rời khỏi VN thì hai bên sẽ thiết lập xong hệ thống viện trợ tái thiết, và trong vòng 60 ngày sau đó thì lập xong hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
Bản mật ước do đích thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn Đồng ký nhận.  Từ đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món tiền của Kissnger. Nhưng đến nay, cuối năm 1974, Liên Xô cử tướng Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam thì có nghĩa là Hiệp định Paris coi như tờ giấy lộn.  Rốt cuộc Hà Nội biếu không 591 tù binh Hoa Kỳ mà chẳng nhận được đồng nào,  suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, hằng triệu người chết, hằng chục tỉ dô la nợ chiến phí… đến nay chỉ còn là con số không ( sic ).
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến tranh trở lại;  nhưng Lê Duẩn và tập đoàn lãnh đạo CSVN thực sự trắng mắt.  Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức, trong 5 năm nay, nhà nước đã đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn vét nhân lực đến độ phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời đàn bà góa…  thì lấy đâu để gây chiến tranh trở lại (sic).
*( Theo hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn Thái thì cho tới năm 1974 Hà Nội đã động viên đến 16% dân số, không thể nào động viên thêm được nữa. Trong khi Miền Nam là 5,88% )
Hết đạn và hết nhiên liệu
Bắt đầu từ năm 1975 Tướng Cao Văn Viên Viên viết tường trình cho Ngũ Giác Đài về những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983 mới được in thành sách với tựa đề “The Final Collapse”.  Và hai mươi năm sau, 2003,  The Final Collapse được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối của Việt Nam Cọng Hòa”.  Trong sách có kèm theo những chú giải mới nhất của Tướng Cao Văn Viên.
“Một sự thực không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…” ( Tài liệu của Ngũ Giác Đài :  Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136 ).
Năm 1974, tháng Giêng. Tài liệu của CIA : “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự.  Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” ( Frank Snepp, Decent Interval, trang 95 ).
Tướng Jhon Murray là Tư lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.  Ông đến Việt Nam sau Hiệp định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ tham mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975.  Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô la; nhưng theo các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.
Năm 1974. Cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp chót với Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng; Tướng Đồng Văn Khuyên, Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận và một số tướng lãnh của Bộ TTM.  John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2, và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4.  Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi hành nổi”.  Sau buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974, tháng 5. Theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, Bộ trưởng Bộ kế hoạch của VNCH thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “cắt đất theo lượng viện trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ chức.  Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến ( tối kiến ) của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng thống đã bị báo chí Mỹ cố tình gieo tiếng oan mà lúc đó ông không thể lên tiếng thanh minh.
Năm 1974, ngày 24-12. Theo hồi ký của Đại tá Phạm Bá Hoa : Ngày 24-12-1974, lúc quân CSVN đang tấn công Phước Long sang ngày thứ 10;  một buổi tiệc mừng Giáng sinh được Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu trưởng bộ Tổng tham mưu, tổ chức trên lầu của Câu lạc Bộ trong BTTM.
Khách tham dự gồm có Tướng Smith, Chỉ huy trưởng cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân y Phạm Hà Thanh; Tướng Công binh Nguyễn Văn Chức;  Đại tá Phạm Kỳ Loan, Tổng cục phó Tiếp vận;  Đại tá Phạm Bá Hoa, Tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp vận;  Đại tá Pelosky, Phụ tá của Tướng Smith; Trung tá Nguyễn Đình Bá, Chánh văn phòng của Tướng Khuyên :
Thiếu tướng Smith tiết lộ rằng : “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300 triệu Mỹ kim để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ” (Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang 264 ).  Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các nhân vật trong bữa tiệc đều còn sống mạnh khỏe nhưng không có ai phản đối, kể cả tướng Smith;  chứng tỏ chuyện này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã được lên giàn trước khi mất Phước Long chứ không phải là sau khi mất Ban Mê Thuột.  Người ta đã tính toán sẵn kế hoạch để cho VNCH sụp đổ trước tháng 6 năm 1975,  kể cả ước tính trước ngân sách chi dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7-1, Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước Long là : “Nhà Trắng nói rằng : Tổng thống Pho không có ý vi phạm những điều cấm chỉ ( của Quốc hội ) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” ( Hồi ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161 ). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng tuyên bố : “Cho kẹo quân Mỹ cũng không dám trở lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận được tin,  Lê Duẩn chỉ thị cho Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam :  “Một tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” ( Hoàng Văn Thái, trang 172).
Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân VNCH thua tại Phước Long là do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cố tình bỏ Phước Long để thử xem phản ứng của Mỹ.  Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu là  để Quốc hội Mỹ có cớ biểu quyết ngưng viện trợ quân sự cho VNCH.
Và tình hình thực sự vào tháng 3 năm 1975 :
– Tuần đầu của tháng 3 năm 1975.  Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại giao HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “lấy có” cho Cam Bốt: “Chính phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”.( Frank Snepp, Decent Interval, trang 175 ).
*( Nguyên văn : “…he say, the Lon Nol Government was on the brink of collapse, it was essential to keep open the aid pipeline so no one could later blame the United States for the disaster” ).
Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại giao HK trước khi ông ta lên đường đi Trung Đông : “Hãy làm mọi cách để Quốc hội tiếp tục duy trì viện trợ ( lấy có ) cho Cam Bốt và Việt NamKhông phải để cứu vãn hai nước đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” ( Frank Snepp, Decent Interval trang 176 ).
*( Nguyên Văn :  Do every thing possible to ensure that Congress lived up our aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because the two countries were necessarily salvageable, but precisely because they might not be ). Hai ngày sau khi Kissinger nói cậu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột. 
Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không còn viện trợ.  Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không còn gạo và không còn đạn ( Tài liệu The Final Cllapse của Tướng Cao Văn Viên ).  Vì thế Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan rã trước khi hết gạo và đạn trước tháng Sáu năm 1975.  Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng quân đội Sài Gòn đã thua chạy trước sức tiến công vũ bão của quân Hà Nội.
Thế bắt buộc của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Năm 1975, ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Theo Tướng Cao Văn Viên:  Ngày 11-3 Tướng Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975.  Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó :
“Quyết định của Tổng thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng.  Hình như Tổng thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
“… Tổng thống Thiệu phác họa sơ : …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cọng sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá… …Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại… …” ( Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131 ).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … . Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biều quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra.  Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc” ( trang 132 ).
Các đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì sao Tổng thống Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như Vùng 2.  Và vì sao Tướng Viên không nhiệt tình tham gia kế hoạch của Tướng Thiệu.
Cuối cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH.  Giờ đây đã 40 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho ông Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.
BÙI ANH TRINH
 
 

Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2015

Kẻ thù của người Trung Quốc


Kẻ thù của người Trung Quốc



Trên thế giới không có nước nào có lịch sử lâu đời như Trung Quốc, không có nước nào có một nền văn hóa không đứt đoạn như Trung Quốc, mà cái văn hóa đó lại đã từng đạt đến một nền văn minh cao độ. Người Hy-Lạp thời nay với người Hy-Lạp ngày xưa chẳng liên quan gì với nhau. Người Ai-Cập cũng vậy. Nhưng người Trung Quốc hôm nay thì đúng là hậu duệ của người Trung Quốc cổ đại. Tại sao một nước khổng lồ như vậy, một dân tộc to lớn như vậy ngày nay lại ra nông nỗi xấu xa ấy? Chẳng những bị người nước ngoài ức hiếp mà còn bị ngay dân mình ức hiếp. Nào là vua bạo ngược, quan bạo nguợc, mà cả dân (quần chúng) cũng bạo ngược.