* Ngày 29-9 năm nay đã là ngày giỗ thứ 14
của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Cho tới trước khi chết ông vẫn cúi đầu
nhận chịu trách nhiệm đã làm cho mất nước, một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân
một người không thể nào gánh vác. Nếu có một người nào đó đứng ra nhận
chịu thì quả là vô lý, thế nhưng ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm.
Phải chăng là Mỹ bỏ rơi ?
Kể từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ
vào năm 1975 với 3 triệu cựu chiến binh tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn
người đã chết, và 3.000 quân nhân còn mất tích. Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng
với tranh cãi đổ lỗi cho nhau.
Chính vì vậy mà những người quân nhân VNCH
không bao giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết
sức của họ rồi, họ đã phải chết tới 58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại
còn phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do
bị khủng hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc
đời.
Hai chữ “bỏ rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa
dịu sự oán hận của người Việt sau khi Mỹ cắt ông tiếp huyết cho VNCH.
“Bỏ rơi đồng minh” khác với “phản bội đồng minh”. Bỏ rơi có nghĩa là tôi
thích thì tôi giúp, khi thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp nữa. Còn
phản bội là phỉnh gạt, lừa đảo. Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ bỏ rơi
VNCH còn hơn là nhận phản bội VNCH.
Frank Snepp, tháng 3 năm
1973
Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định
làm đơn xin đầu quân vào CIA để tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại
VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn
trong tư thế một nhân viên mới vào nghề. Năm 1971 ông trở về Trung tâm
CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc
Việt.
Đến năm 1972 ông bị đày đi VN vì tội đã báo
trực tiếp cho Tòa Bạch Ốc một thông tin ông đọc được trên báo của Hà Nội mà
không qua các xếp lớn của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai của Frank Snepp tại
Việt Nam là đọc báo và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để trình cho
Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng quan
tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết
thành sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc
tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh
chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân
viên CIA không được phép tiết lộ.
CIA đã đưa ông ra tòa vì ông đã hành động
trái với lời tuyên thệ khi ông bước chân vào tổ chức CIA. Tòa án đã phán
quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí mật nghiệp vụ nhưng cũng quyết định
cho thu hồi quyển sách “Decent Interval” của Frank Snepp. Tuy nhiên phán
quyết này chỉ có hiệu lực hình thức bởi vì cả thế giới đều đã đọc Decent
Interval.
Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu
từ khi ký kết Hiệp định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết hiệp định,
Tổng thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker.Frank
Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin :
“Mỹ buộc phải bò khỏi Việt Nam trong tư
thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải có
một chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ. (
Trang 75, nguyên văn : “The United States was obliged to crawl out of
Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind of
conjuring and stagecraft at which Martin so adept” ). Như vậy màn
kịch bỏ rơi Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.
Nixon thất hứa với Liên Xô, tháng 8 năn
1974
Năm 1974, giữa năm, Tổng thống Mỹ
Nixon đệ trình Quốc hội Mỹ bản dự thảo hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên
Xô. Đến lúc này Quốc hội Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả
cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp
ước ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng
sẽ được thông qua dễ dàng vì lợi ích chung của cả hai nước, nhất là từng bước
giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ mong chờ.
Tuy nhiên ông đã tính lầm , Quốc hội Mỹ đoán
rằng còn nhiều cái giá khác nữa giữa Nixon và Liên Xô, Trung Quốc, Hà Nội vào
năm 1972. Vì vậy Quốc hội bác bỏ thẳng thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ
để buộc Nixon phải lòi ra những thỏa thuận khác. Dĩ nhiên là Nixon không
đưa ra, ông dùng đặc quyền hành pháp để từ chối.
Vì vậy Quốc hội có một cách khác để moi ra
những gì mà Nixon đã cam kết với LX, TQ và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi
dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy ban điều tra đặc biệt về sai phạm của
Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố viên của ủy ban điều tra có
quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư
Khoa, và cả Hà Nội.
Nixon chỉ còn có cách từ chức
để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và Kissinger đã có những thỏa thuận mật
với đối phương mà không xin phép Quốc hội. Một khi ông từ chức thì những
cam kết của ông trở thành vô hiệu lực. Quốc hội sẽ không còn cớ để truy
xét.
Sau khi Nixon từ chức thì Quốc hội Hoa Kỳ cho
thông qua đạo luật cấm HK buôn bán với các nước Cọng sản vào cuối năm 1974 (
Đạo luật Jackson-Vanik ). Sự trở mặt của Quốc hội Mỹ đã khiến Liên Xô
tức giận bởi vì những cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm
1972 đã không được thi hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại tướng Kulikov của Liên
Xô đến Hà Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung cấp
vũ khí và chiến phí.
Hà Nội cay đắng
Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp định
Paris thì Hà Nội ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô
kiện, trao trả tù binh VNCH để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc
Việt. Trong khi đó Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38
ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ.
Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là
quân đội CSVN vẫn ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê
Nam Việt Nam. Biên giới hai miền Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như
Hiệp định Geneve 1954.
Nhìn bề mặt của Hiệp định Paris quá vô lý cho
nên giới quan sát quốc tế thừa biết bên trong phải có một mật ước riêng.
Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng thống Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước
riêng đằng sau Hiệp định Paris được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết
Hiệp định Paris 1973. Và tháng 10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn
bản mật ước Nixon-Phạm Văn Đồng.
Theo đó thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết
cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD, và viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ
USD. Trong vòng 30 ngày sau khi người tù binh HK cuối cùng rời khỏi VN
thì hai bên sẽ thiết lập xong hệ thống viện trợ tái thiết, và trong vòng 60
ngày sau đó thì lập xong hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
Bản mật ước do đích thân Kissinger mang tới
Hà Nội cho Phạm Văn Đồng ký nhận. Từ đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món
tiền của Kissnger. Nhưng đến nay, cuối năm 1974, Liên Xô cử tướng Kulikov sang
Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam thì có nghĩa là Hiệp định Paris coi như
tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu không 591 tù binh Hoa Kỳ mà chẳng nhận
được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, hằng triệu người chết,
hằng chục tỉ dô la nợ chiến phí… đến nay chỉ còn là con số không ( sic
).
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến
tranh trở lại; nhưng Lê Duẩn và tập đoàn lãnh đạo CSVN thực sự trắng
mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức, trong 5 năm nay, nhà nước đã đóng
cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn vét nhân lực đến độ phải gọi
lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời đàn bà góa… thì lấy đâu để
gây chiến tranh trở lại (sic).
*( Theo hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn Thái
thì cho tới năm 1974 Hà Nội đã động viên đến 16% dân số, không thể nào động
viên thêm được nữa. Trong khi Miền Nam là 5,88% )
Hết đạn và hết nhiên liệu
Bắt đầu từ năm 1975 Tướng Cao Văn Viên Viên
viết tường trình cho Ngũ Giác Đài về những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt
Nam nhưng đến năm 1983 mới được in thành sách với tựa đề “The Final
Collapse”. Và hai mươi năm sau, 2003, The Final Collapse được nhà
nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối
của Việt Nam Cọng Hòa”. Trong sách có kèm theo những chú giải mới nhất
của Tướng Cao Văn Viên.
“Một sự thực không thể chối cãi là quân
đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…” ( Tài liệu
của Ngũ Giác Đài : Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn
Kỳ Phong trang 136 ).
Năm 1974, tháng Giêng. Tài liệu của
CIA : “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và
ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố gắng tìm đáp số cho bài toán
viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để giải quyết
vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” (
Frank Snepp, Decent Interval, trang 95 ).
Tướng Jhon Murray là Tư lệnh cuối cùng của
quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Ông đến Việt Nam sau Hiệp định Paris
1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ tham mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán
sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm
1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700
triệu đô la; nhưng theo các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu
chỉ đủ giữ được Vùng 4.
Năm 1974. Cũng theo Frank Snepp, ngày
16-8 John Murray họp buổi họp chót với Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu
trưởng; Tướng Đồng Văn Khuyên, Tổng cục trưởng Tổng cục Tiếp vận và một số
tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp
mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2, và cả Vùng 3 để về cố
thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên
kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không thể nào thi
hành nổi”. Sau buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa
Kỳ.
Năm 1974, tháng 5. Theo Tiến sĩ Nguyễn
Tiến Hưng, Bộ trưởng Bộ kế hoạch của VNCH thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế
hoạch “cắt đất theo lượng viện trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng
thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ
chức. Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào
năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng
kiến ( tối kiến ) của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng thống
đã bị báo chí Mỹ cố tình gieo tiếng oan mà lúc đó ông không thể lên tiếng
thanh minh.
Năm 1974, ngày 24-12. Theo hồi ký của
Đại tá Phạm Bá Hoa : Ngày 24-12-1974, lúc quân CSVN đang tấn công Phước Long
sang ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng Giáng sinh được Tướng Đồng Văn
Khuyên, Tham mưu trưởng bộ Tổng tham mưu, tổ chức trên lầu của Câu lạc Bộ
trong BTTM.
Khách tham dự gồm có Tướng Smith, Chỉ huy
trưởng cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân y Phạm Hà Thanh; Tướng Công binh
Nguyễn Văn Chức; Đại tá Phạm Kỳ Loan, Tổng cục phó Tiếp vận; Đại
tá Phạm Bá Hoa, Tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp vận; Đại tá Pelosky, Phụ
tá của Tướng Smith; Trung tá Nguyễn Đình Bá, Chánh văn phòng của Tướng Khuyên
:
Thiếu tướng Smith tiết lộ rằng : “Bộ Quốc
Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300 triệu Mỹ kim để di tản
sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ”
(Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang 264 ).
Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các nhân vật trong bữa tiệc
đều còn sống mạnh khỏe nhưng không có ai phản đối, kể cả tướng Smith;
chứng tỏ chuyện này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã được
lên giàn trước khi mất Phước Long chứ không phải là sau khi mất Ban Mê
Thuột. Người ta đã tính toán sẵn kế hoạch để cho VNCH sụp đổ trước tháng
6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân sách chi dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7-1, Phản ứng của Mỹ
sau khi mất Phước Long là : “Nhà Trắng nói rằng : Tổng thống Pho không có ý
vi phạm những điều cấm chỉ ( của Quốc hội ) về việc sử dụng lực lượng quân sự
Hoa Kỳ tại Việt Nam” ( Hồi ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161 ).
Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng tuyên bố : “Cho kẹo quân Mỹ cũng không
dám trở lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ
thị cho Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm
miền Nam : “Một tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng
2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” ( Hoàng Văn Thái, trang
172).
Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân
VNCH thua tại Phước Long là do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cố tình bỏ Phước
Long để thử xem phản ứng của Mỹ. Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu
là để Quốc hội Mỹ có cớ biểu quyết ngưng viện trợ quân sự cho
VNCH.
Và tình hình thực sự vào tháng 3 năm 1975
:
– Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong
một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại giao HK, Kissinger đã giải thích hành động
viện trợ “lấy có” cho Cam Bốt: “Chính phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây
là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không
ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”.( Frank Snepp, Decent
Interval, trang 175 ).
*( Nguyên văn : “…he say, the Lon Nol
Government was on the brink of collapse, it was essential to keep open the aid
pipeline so no one could later blame the United States for the disaster”
).
– Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho
các viên chức Ngoại giao HK trước khi ông ta lên đường đi Trung Đông : “Hãy
làm mọi cách để Quốc hội tiếp tục duy trì viện trợ ( lấy có ) cho Cam Bốt và
Việt Nam. Không phải để cứu vãn hai nước đó, mà vì không thể
nào cứu vãn được hai nước đó” ( Frank Snepp, Decent Interval trang 176 ).
*( Nguyên Văn : Do every thing
possible to ensure that Congress lived up our aid commitments to Cambodia and
Vietnam- not because the two countries were necessarily salvageable, but
precisely because they might not be ). Hai ngày sau khi Kissinger nói cậu
này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.
Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt
Nam sụp đổ do không còn viện trợ. Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì
đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không còn gạo và không còn đạn ( Tài liệu
The Final Cllapse của Tướng Cao Văn Viên ). Vì thế Kissinger mong cho
Quân đội VNCH tự tan rã trước khi hết gạo và đạn trước tháng Sáu năm
1975. Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng quân đội Sài Gòn đã thua chạy trước
sức tiến công vũ bão của quân Hà Nội.
Thế bắt buộc của Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu
Năm 1975, ngày 11-3, một ngày sau khi
mất Ban Mê Thuột. Theo Tướng Cao Văn Viên: Ngày 11-3 Tướng Thiệu mời các
Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định
muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm
1975. Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó :
“Quyết định của Tổng thống Thiệu cho chúng
tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng
thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba
người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
“… Tổng thống Thiệu phác họa sơ : …Một vài
phần đất quan trọng đang bị Cọng sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng
mọi giá… …Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại… …” (
Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131
).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa
Kỳ không có một phản ứng nào … . Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ
không muốn cuộc chiến tiếp tục, và biều quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là
chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc”
( trang 132 ).
Các đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì
sao Tổng thống Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như Vùng 2. Và vì sao Tướng
Viên không nhiệt tình tham gia kế hoạch của Tướng Thiệu.
Cuối cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ
tội làm mất nước cho Tổng thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ
rơi VNCH. Giờ đây đã 40 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải
oan cho ông Nguyễn Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.
BÙI ANH
TRINH