TTVN03032014.mp3
Thêm một lần nữa, ba chữ “người Trung Quốc” làm nhức nhối một vùng đất Việt Nam, đặc biệt là những vùng duyên hải Việt Nam đang bị thâu tóm, xâu xé và chảy máu bởi những kẻ bên ngoài đóng vai nhà đầu tư nhưng thực chất, bên trọng họ ẩn chứa những mối nguy cho dân tộc. Tỉnh Quảng Trị, cũng giống như những tỉnh nghèo khác, lại bị người Trung Quốc tràn ngập xứ đất này và cũng như nhiều nơi khác, họ lại đóng vai nhà đầu tư cùng hàng loạt hành tung bí ẩn, khó hiểu và ngạo mạn, bất chấp của họ.
Những vùng đất trong tầm ngắm của TQ
Nếu như những năm cuối của thập niên 2010, nhân dân đã bức xúc vì người Trung Quốc tràn lan ở những vùng miền núi trọng yếu, vùng chiến lực quân sự của Việt Nam như Tây Nguyên Trung phần Việt Nam, các nông trường dọc theo dãy Trường Sơn, các cửa khẩu phía Bắc và những tỉnh lị cận biên giới như Bình Dương, Tây Ninh, Long An, An Giang, Cà Mau… Thì hiện tại, mức độ tràn lan của họ kinh khủng gấp trăm lần trước đây.Nếu như ở những nơi này, người Trung Quốc có được đặc quyền đặc lợi là tha hồ khai thác, được hoạt động bí mật, người Việt Nam không được vào khu vực hoạt động của họ và họ chỉ đóng một mức thuế tượng trưng… Thì hiện tại, mức độ tràn lan của người Trung Quốc trên đất Việt Nam đã đi vào chỗ không thể kiểm soát được nữa và nhân dân càng lúc càng thấy lo ngại cho sự tung hoành của họ. Mọi vùng đất duyên hải đều có mặt người Trung Quốc.
Một người dân ven biển Quảng Trị than thở: “Quá nguy hiểm chứ, bên phía cửa Việt, cửa Tùng, tức là nó lấy danh nghĩa đầu tư kinh tế. Vậy mà bên phía chính quyền nó làm lơ, không đấu tranh là chết luôn.”
Theo người này nói, thời gian gần đây, hầu như mọi mảnh vườn ở làng Hà Tây, xã Triệu An, huyện Triệu Phong đều lâm vào nạn xâm lăng một cách trắng trợn của người Tàu và nhà cầm quyền địa phương. Nghĩa là khi người Tàu đến đây, việc đầu tiên họ làm là tìm đến các cơ quan, các quan chức để bằng mọi giá liên kết, đút lót và mua chuộc bằng được các quan chức này. Để rồi sau đó là những hành động xâm lăng.
Hành động xâm lăng của người Tàu được thực hiện theo con đường đầu tư kinh tế trá hình. Người này khẳng định đó là xâm lăng và bán nước chứ không phải đầu tư gì cả. Vì một khi đầu tư kinh tế đích thực, biểu hiện đầu tiên của việc đầu tư phải là thiện chí, thuận mua vừa bán và không có những hành tung đen tối.
Đằng này, thay vì thỏa thuận với nhân dân để mua đất, người Tàu lại mua chuộc và biến quan chức địa phương thành tay sai của họ, các quan chức địa phương nghiễm nhiên trở thành con rối trong cuộn dây giật của người Tàu. Thay vì bảo vệ nhân dân và bảo vệ quyền lợi quốc gia, bảo vệ lợi ích quốc dân, các quan chức địa phương lại bằng mọi giá bảo vệ người Tàu, xem họ như những quan thầy và bất chấp nỗi tủi nhục, đau khổ của nhân dân, họ hết dùng thủ đoạn này chuyển sang thủ đoạn khác để biến đất canh tác, đất vườn của nhân dân thành công trình của người Tàu.
Những dự án “tắc kè đổi màu”
Một người dân khác ở Quảng Trị nói: “Tức là hồi giờ nó làm ở miền Bắc, giờ nó làm ở miền Trung. Nhưng cái đó cũng phụ thuộc bên mình mà. Thế chiến lược của thằng Trung Quốc là nó đánh giữa miền Trung để nó cắt đôi miền Nam và miền Bắc ra.”
Theo một người dân khác, chuyện thu hồi đất, phù phép diện tích đất của người dân trở thành nơi xây dựng cho người Trung Quốc có những bước đi và lộ trình của nó chứ không phải là ngẫu nhiên. Cũng như ở những tỉnh khác, dường như cơ quan cầm quyền địa phương đã có chung một công thức lấy đất của dân nhân danh công trình phúc lợi xã hội, dự án nhà nước. Và theo luật nhà đất cũng như luật dân sự hiện hành, việc thu hồi đất của nhân dân để xây dựng công trình nhà nước, công trình mang tính phúc lợi xã hội là hợp lý, mức đền bù theo giá nhà nước qui định.
Có thể là một nơi mỗi khác, thủ đoạn của quan chức địa phương sẽ dích dắc cho phù hợp vùng miền, nhưng việc đầu tiên bao giờ cũng là ra thông báo, sau đó họp dân một cách tượng trưng, đưa những tay chân vào phát biểu thể hiện sự nhất trí để lôi kéo nhân dân, sau đó đến lệnh thu hồi đền bù. Và tất cả chuỗi thông báo, lệnh thu hồi đền bù này đều nhân danh lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Chính vì sự nhân danh như thế, nhân dân khó bề chống đối hoặc không đồng ý.
Và khi đất đã bị thâu tóm về tay nhà cầm quyền, lúc đó dự án sẽ đổi màu như một con tắc kè, ban đầu nó mang màu xanh của niềm hy vọng nhân dân, sau đó nó chuyển dần sang màu tía rồi lộ nguyên màu đỏ của sức mạnh độc tài, thâu tóm và lừa bịp nhân dân. Thay vì xây dựng công trình phúc lợi cho xã hội, người ta bắt đầu bán cho Trung Quốc và người Trung Quốc lại xây dựng thành những mật khu mà người Việt Nam không thể nào biết được bên trong nó chứa những gì và nó có lợi ích hay độc hại, nguy hiểm cho an ninh quốc gia gì không. Nói chung là nhân dân mù tịt trước những mật khu của người Tàu ngay trên quê hương mình.
Một người dân khác nói thêm là mức độ nguy hiểm của các mật khu Trung Quốc mà trên danh nghĩa đó là những công trình kinh tế trọng điểm, những công trình đầu tư nước ngoài triệu đô tưởng chừng như đơn giản nhưng thực tế, nó mang lại một tai biến lớn cho dân tộc.
Sở dĩ gọi là tai biến bởi ông này quan niệm rằng não trạng của cả dân tộc cũng giống như bộ não của một con người, một khi nhồi nhét quá nhiều chất độc, hoặc là nó tạo khối u, hoặc là nó tắc nghẽn động mạch và một ngày nào đó, mạch máu bùng vỡ, làm cho não bộ bị tê liệt, nhẹ thì tàn tật suốt đời, nặng thì tử vong.
Tình trạng các công trình người Tàu xuất hiện ở các vùng duyên hải miền Trung là một tình trạng đầu độc đúng nghĩa. Hoặc là các thương nhân Tàu sẽ vung tiền, kéo hàng loạt thanh niên, đặc biệt là những cô gái mới lớn, con nhà nghèo rơi vào nghề bán dâm vì mê túi tiền của họ và bị họ gài bẫy để rồi hàng loạt cô gái phải sa chân vào con đường mại dâm.
Về phần nam thanh niên, bởi học hành dang dở, thất nghiệp kéo dài nên khi có một công việc nào nhanh hái ra tiền, họ sẽ bất chấp để kiếm tiền. Và chuyện kết bè kết nhóm, tổ chức băng đảng để buôn bán ma túy và chèo kéo những thanh niên đồng lứa vào đường dây, sau đó giới thiệu cho những ông trùm người Tàu để mở rộng thị trường ma túy đang là ung nhọt nhức nhối ở Quảng Trị.
Một lần nữa, người Trung Quốc lại thành công trong chiến dịch bành trướng của họ trên đất Quảng Trị.
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
-----------------------------------------------------------
Đà Nẵng là một thành phố mà ông Nguyễn Bá Thanh, cựu chủ tịch Đà Nẵng
từng tuyên bố là thành phố không có người ăn xin, không có trộm cắp,
không có xì ke ma túy và không có người nghèo… Thế nhưng, không có quan
điểm nào đưa ra nhằm khẳng định Đà Nẵng không bị Trung Quốc xâm thực.
Chính vì thế, ngay trên hai con đường có tên Hoàng Sa và Trường Sa chạy
dọc theo bờ biển Đà Nẵng, các biệt khu của người Tàu cùng với hàng trăm
quán sá mang biển hiệu Tàu mọc lên dày đặc.
Đâu rồi Đà Nẵng xưa?
Đó là chưa muốn nói rằng hai con đường với bãi cát vàng trải dài,
rừng dừa xanh miên man theo gió biển đã hoàn toàn không còn mang dáng
dấp nguyên sơ của nó bởi mùi hôi thối nồng nặc của cống rãnh cộng với
mùi thức ăn Tàu vốn chặt to kho mặn bốc ra từ các nhà hàng Tàu đã khiến
cho bất kì người Việt nào đi qua hai con đường này cũng phải bụm mũi và
ngỡ ngàng không biết mình đang đi lạc vào khu phố ổ chuột nào đó ở nước
Trung Quốc xa xôi.
Một người dân Đà nẵng bức xúc nói: “Chuyện cũ thời xưa, tối tối ra
đường, nó đi đầy đường. Tất cả các quán ven ven đều có bảng hiệu Tàu
hết rồi mà, thực đơn cũng chữ Tàu hết mà!”
Vào vai những du khách xứ Bắc ghé thăm xứ Quảng, chúng tôi dạo một
vòng trên đường Hoàng Sa, con đường mà theo một người dân sống lâu năm ở
đây nói rằng ông Nguyễn Bá Thanh thời còn làm chủ tịch thành phố đã
dành riêng cho việc tiếp đón và lưu trú của khách cấp nhà nước Trung
Quốc nhằm khẳng định Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, có riêng tên
đường và có riêng đơn vị hành chính hẳn hoi. Chuyện này hư thực ra sao
chưa rõ.
Thế nhưng chưa đầy một năm sau khi ông Nguyễn Bá Thanh rời chức vị
chủ tịch thành phố Đà Nẵng để ra Hà Nội nhậm chức Trưởng Ban Nội Chính
Trung Ương thì mọi việc đã hoàn toàn thay đổi, con đường này trở thành
biệt khu của người Tàu, mọi hoạt động ở đây đều mang dáng dấp của một
thành phố Trung Hoa thu nhỏ.
Một người dân khác, tên Oanh, sống ở Đà nẵng lâu năm, chia sẻ với
chúng tôi thêm về người Tàu ở thành phố này, bà Oanh cho biết, những năm
trước 1980, thành phố Đà Nẵng vốn có rất nhiều người Tàu sống ở đây, họ
là hậu duệ của những vị tướng Tàu “phản Thanh phục Minh”, xuôi thuyền
sang Thuận Hóa, tức Huế bây giờ để xin triều đình nhà Nguyễn cho họ lưu
trú, tránh nạn diệt vong trên quê hương của họ. Sống lâu năm, họ tổ chức
thành hội, đoàn, có tổ chức Minh Hương hẳn hoi. Thế nhưng, chiến tranh
Việt – Trung năm 1979 đã khiến họ đồng loạt quay về Trung Hoa theo lời
hiệu triệu của chính phủ Trung Hoa thời bấy giờ.
Điều này cho thấy người Tàu dù đã sống lâu năm ở đất Việt Nam, họ vẫn
tôn thờ Mao Trạch Đông, vẫn đau đáu về cố quốc và chưa bao giờ xem Việt
Nam là quê hương, là tổ quốc thứ hai của họ giống như người Việt sang
Mỹ lưu vong đã xem đất Mỹ là ân nhân, là quê hương yêu dấu thứ hai của
mình. Chính vì thế, khi người Tàu xuất hiện dày đặc ở Đà Nẵng, điều này
khiến cư dân Đà Nẵng cảm thấy lo ngại và bất an bởi chính sách bành
trướng của họ.
Thả con tép câu con tôm
Một người dân Đà Nẵng khác tên Dũng, chia sẻ với chúng tôi rằng ông
thấy người Tàu quá nguy hiểm, họ đã dễ dàng qua mặt nhà cầm quyền cũng
như qua mặt nhân dân ở đây. Ông này nói thêm là thực ra, người Tàu trở
lại Đà Nẵng không phải mới mẽ gì, họ sang đây đã ngót nghét mười năm
trên danh nghĩa đi đầu tư kinh doanh, và hệ quả là những mảnh đất vàng,
những điểm trọng yếu dọc bờ biến Đà Nẵng nhanh chóng trở thành khu xây
dựng bí mật của họ, có hẳn tên mới China Beach. Không có người Việt Nam
nào được đến gần khu vực xây dựng của họ.
Theo ông Dũng phân tích, để có được những diện tích trọng yếu này,
chắc chắn họ đã lót tay cho các quan chức không phải ít. Vì nhiều người
dân Đà Nẵng mong mỏi được mua ở khu vực này nhưng không bao giờ có đủ cơ
hội để mua. Nhưng người Trung Quốc đã khéo bỏ tiền ra để lấy trọn một
khu vực đẹp nhất, trọng yếu nhất của Đà Nẵng để biến thành biệt khu của
mình.
Và việc mua được những diện tích đất vàng ở Đà Nẵng cũng nhanh chóng
kéo theo hệ quả là người dân ở khu vực này bị Tàu hóa vì động cơ kiếm
tiền, không ít các cô gái ở đây sẵn sàng làm phục vụ ở các bar, nhà hàng
của người Tàu vì theo họ, các ông chủ người Tàu trả tiền rất mát tay và
xài rất sang. Hơn nữa, nếu không chọn làm việc cho các ông chủ người
Tàu vốn sống gần nhà mình, các cô gái này phải đi làm việc trong khu
công nghiệp cách nơi họ ở quá xa và đồng lương cũng còm cỏi.
Thuyền, biệt danh là “Thuyền Ba đờ ghe”, từng làm việc lâu năm với người Tàu trên đường Hoàng Sa, cho chúng tôi biết: “Họ
qua mình họ ở thì đầu tiên cũng thiện cảm với mình. Nhưng khi mình đã
làm việc cho họ rồi thì mình cũng không khác chi người ở cho họ thôi.
Cái cách của họ với mình không thiện cảm lắm đâu. Không giống như người
mình với người mình, có nghĩa là mình làm lấy lương nhưng người ta quý
trọng mình. Còn họ mình làm được thì làm, không làm được thì họ nói khó
chịu lắm! Không dễ đâu! Riêng ở Đà Nẵng đây thì nhiều lắm!”
Hiện tại, Thuyền không còn làm việc với người Tàu ở đây nữa, và cô
cũng ngậm ngùi nhận ra rằng người chủ Trung Quốc chưa bao giờ đối xử tốt
với nhân viên Việt Nam cả, một đồng xu của họ bỏ ra, bao giờ cũng ngầm
chứa một phép toán bên trong mà ở đó, nếu là con gái, phải cộng trừ nhân
chia cho ra đáp số bằng xác thịt, nhục dục và tiết hạnh. Còn nếu là con
trai, cái giá phải trả là những đường dây ma túy, xã hội đen, làm kẻ
bưng bô cho ông chủ, phải trả giá bằng sự vong nô tuyệt đối.
Điều này cho thấy các ông chủ Trung Quốc bao giờ cũng biết sử dụng
đồng tiền và tùy từng tình huống mà kinh doanh nó, chiêu thức thả con
tép để lấy con tôm của họ luôn đắc địa, luôn mang về cho họ phần thắng
lợi. Và trên một mảnh đất, một quê hương mà kẻ ăn không hết, người làm
không ra, thì những “kẻ ăn không hết” sẽ dễ dàng trở thành những tên
Việt gian để đưa kẻ ngoại bang vào làm chủ, còn những “người làm không
ra” sẽ rất dễ sa ngã vào những đồng tiền mị dân của kẻ thực dân mới với
vỏ bọc nhà đầu tư, ông chủ tốt bụng.
Tạm biệt thành phố Đà Nẵng, chúng tôi ra thẳng sân bay và mua vé quay
trở về miền Bắc, một cảm giác buồn xâm chiếm đến nghẹt thở, một nỗi bất
an và trĩu nặng khi nghĩ đến chuyện trước đây, Bình Dương, Hà Tĩnh đã
dày đặc người Tàu. Không ngờ, chưa bao lâu sau đó, Đà Nẵng cũng dày đặc
người Tàu, rồi đây, không biết sẽ đến thành phố nào trở thành phố Tàu
trên đất nước Việt Nam nữa đây? Đương nhiên là người Trung Quốc đã có
mặt trên khắp ba miền đất nước! Thật là buồn khi mơ hồ nhận ra rằng mình
đang lưu vong trên quê cha đất tổ của mình!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
Đà Nẵng là một thành phố mà ông Nguyễn Bá Thanh, cựu chủ tịch Đà Nẵng từng tuyên bố là thành phố không có người ăn xin, không có trộm cắp, không có xì ke ma túy và không có người nghèo… Thế nhưng, không có quan điểm nào đưa ra nhằm khẳng định Đà Nẵng không bị Trung Quốc xâm thực. Chính vì thế, ngay trên hai con đường có tên Hoàng Sa và Trường Sa chạy dọc theo bờ biển Đà Nẵng, các biệt khu của người Tàu cùng với hàng trăm quán sá mang biển hiệu Tàu mọc lên dày đặc.
Đâu rồi Đà Nẵng xưa?
Đó là chưa muốn nói rằng hai con đường với bãi cát vàng trải dài, rừng dừa xanh miên man theo gió biển đã hoàn toàn không còn mang dáng dấp nguyên sơ của nó bởi mùi hôi thối nồng nặc của cống rãnh cộng với mùi thức ăn Tàu vốn chặt to kho mặn bốc ra từ các nhà hàng Tàu đã khiến cho bất kì người Việt nào đi qua hai con đường này cũng phải bụm mũi và ngỡ ngàng không biết mình đang đi lạc vào khu phố ổ chuột nào đó ở nước Trung Quốc xa xôi.Một người dân Đà nẵng bức xúc nói: “Chuyện cũ thời xưa, tối tối ra đường, nó đi đầy đường. Tất cả các quán ven ven đều có bảng hiệu Tàu hết rồi mà, thực đơn cũng chữ Tàu hết mà!”
Vào vai những du khách xứ Bắc ghé thăm xứ Quảng, chúng tôi dạo một vòng trên đường Hoàng Sa, con đường mà theo một người dân sống lâu năm ở đây nói rằng ông Nguyễn Bá Thanh thời còn làm chủ tịch thành phố đã dành riêng cho việc tiếp đón và lưu trú của khách cấp nhà nước Trung Quốc nhằm khẳng định Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, có riêng tên đường và có riêng đơn vị hành chính hẳn hoi. Chuyện này hư thực ra sao chưa rõ.
Thế nhưng chưa đầy một năm sau khi ông Nguyễn Bá Thanh rời chức vị chủ tịch thành phố Đà Nẵng để ra Hà Nội nhậm chức Trưởng Ban Nội Chính Trung Ương thì mọi việc đã hoàn toàn thay đổi, con đường này trở thành biệt khu của người Tàu, mọi hoạt động ở đây đều mang dáng dấp của một thành phố Trung Hoa thu nhỏ.
Một người dân khác, tên Oanh, sống ở Đà nẵng lâu năm, chia sẻ với chúng tôi thêm về người Tàu ở thành phố này, bà Oanh cho biết, những năm trước 1980, thành phố Đà Nẵng vốn có rất nhiều người Tàu sống ở đây, họ là hậu duệ của những vị tướng Tàu “phản Thanh phục Minh”, xuôi thuyền sang Thuận Hóa, tức Huế bây giờ để xin triều đình nhà Nguyễn cho họ lưu trú, tránh nạn diệt vong trên quê hương của họ. Sống lâu năm, họ tổ chức thành hội, đoàn, có tổ chức Minh Hương hẳn hoi. Thế nhưng, chiến tranh Việt – Trung năm 1979 đã khiến họ đồng loạt quay về Trung Hoa theo lời hiệu triệu của chính phủ Trung Hoa thời bấy giờ.
Điều này cho thấy người Tàu dù đã sống lâu năm ở đất Việt Nam, họ vẫn tôn thờ Mao Trạch Đông, vẫn đau đáu về cố quốc và chưa bao giờ xem Việt Nam là quê hương, là tổ quốc thứ hai của họ giống như người Việt sang Mỹ lưu vong đã xem đất Mỹ là ân nhân, là quê hương yêu dấu thứ hai của mình. Chính vì thế, khi người Tàu xuất hiện dày đặc ở Đà Nẵng, điều này khiến cư dân Đà Nẵng cảm thấy lo ngại và bất an bởi chính sách bành trướng của họ.
Thả con tép câu con tôm
Một người dân Đà Nẵng khác tên Dũng, chia sẻ với chúng tôi rằng ông thấy người Tàu quá nguy hiểm, họ đã dễ dàng qua mặt nhà cầm quyền cũng như qua mặt nhân dân ở đây. Ông này nói thêm là thực ra, người Tàu trở lại Đà Nẵng không phải mới mẽ gì, họ sang đây đã ngót nghét mười năm trên danh nghĩa đi đầu tư kinh doanh, và hệ quả là những mảnh đất vàng, những điểm trọng yếu dọc bờ biến Đà Nẵng nhanh chóng trở thành khu xây dựng bí mật của họ, có hẳn tên mới China Beach. Không có người Việt Nam nào được đến gần khu vực xây dựng của họ.Theo ông Dũng phân tích, để có được những diện tích trọng yếu này, chắc chắn họ đã lót tay cho các quan chức không phải ít. Vì nhiều người dân Đà Nẵng mong mỏi được mua ở khu vực này nhưng không bao giờ có đủ cơ hội để mua. Nhưng người Trung Quốc đã khéo bỏ tiền ra để lấy trọn một khu vực đẹp nhất, trọng yếu nhất của Đà Nẵng để biến thành biệt khu của mình.
Và việc mua được những diện tích đất vàng ở Đà Nẵng cũng nhanh chóng kéo theo hệ quả là người dân ở khu vực này bị Tàu hóa vì động cơ kiếm tiền, không ít các cô gái ở đây sẵn sàng làm phục vụ ở các bar, nhà hàng của người Tàu vì theo họ, các ông chủ người Tàu trả tiền rất mát tay và xài rất sang. Hơn nữa, nếu không chọn làm việc cho các ông chủ người Tàu vốn sống gần nhà mình, các cô gái này phải đi làm việc trong khu công nghiệp cách nơi họ ở quá xa và đồng lương cũng còm cỏi.
Thuyền, biệt danh là “Thuyền Ba đờ ghe”, từng làm việc lâu năm với người Tàu trên đường Hoàng Sa, cho chúng tôi biết: “Họ qua mình họ ở thì đầu tiên cũng thiện cảm với mình. Nhưng khi mình đã làm việc cho họ rồi thì mình cũng không khác chi người ở cho họ thôi. Cái cách của họ với mình không thiện cảm lắm đâu. Không giống như người mình với người mình, có nghĩa là mình làm lấy lương nhưng người ta quý trọng mình. Còn họ mình làm được thì làm, không làm được thì họ nói khó chịu lắm! Không dễ đâu! Riêng ở Đà Nẵng đây thì nhiều lắm!”
Hiện tại, Thuyền không còn làm việc với người Tàu ở đây nữa, và cô cũng ngậm ngùi nhận ra rằng người chủ Trung Quốc chưa bao giờ đối xử tốt với nhân viên Việt Nam cả, một đồng xu của họ bỏ ra, bao giờ cũng ngầm chứa một phép toán bên trong mà ở đó, nếu là con gái, phải cộng trừ nhân chia cho ra đáp số bằng xác thịt, nhục dục và tiết hạnh. Còn nếu là con trai, cái giá phải trả là những đường dây ma túy, xã hội đen, làm kẻ bưng bô cho ông chủ, phải trả giá bằng sự vong nô tuyệt đối.
Điều này cho thấy các ông chủ Trung Quốc bao giờ cũng biết sử dụng đồng tiền và tùy từng tình huống mà kinh doanh nó, chiêu thức thả con tép để lấy con tôm của họ luôn đắc địa, luôn mang về cho họ phần thắng lợi. Và trên một mảnh đất, một quê hương mà kẻ ăn không hết, người làm không ra, thì những “kẻ ăn không hết” sẽ dễ dàng trở thành những tên Việt gian để đưa kẻ ngoại bang vào làm chủ, còn những “người làm không ra” sẽ rất dễ sa ngã vào những đồng tiền mị dân của kẻ thực dân mới với vỏ bọc nhà đầu tư, ông chủ tốt bụng.
Tạm biệt thành phố Đà Nẵng, chúng tôi ra thẳng sân bay và mua vé quay trở về miền Bắc, một cảm giác buồn xâm chiếm đến nghẹt thở, một nỗi bất an và trĩu nặng khi nghĩ đến chuyện trước đây, Bình Dương, Hà Tĩnh đã dày đặc người Tàu. Không ngờ, chưa bao lâu sau đó, Đà Nẵng cũng dày đặc người Tàu, rồi đây, không biết sẽ đến thành phố nào trở thành phố Tàu trên đất nước Việt Nam nữa đây? Đương nhiên là người Trung Quốc đã có mặt trên khắp ba miền đất nước! Thật là buồn khi mơ hồ nhận ra rằng mình đang lưu vong trên quê cha đất tổ của mình!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.
-----------------------------------------------------------
Trung Quốc đang có âm mưu gì ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?!
Nguyễn Hữu Quý
1. Ðâu chỉ là tài nguyên, khoáng sản
Việc Trung Quốc trúng thầu và thâu
tóm hơn 90% các công trình trọng điểm quốc gia trải dài khắp mọi miền
đất nước Việt Nam thì ai cũng biết. Mới đây, khoảng giữa tháng 1, 2014,
các báo của nhà nước còn cho biết, 60% doanh nghiệp phía Bắc có người
Trung Quốc đứng sau lưng.
Lâu nay, người ta hay dùng danh từ “xâm lược” để chỉ về một cuộc chiến
tranh quân sự, do nước A thực hiện đối với nước B, thì hôm nay, cần được
nghĩ khác. Theo tư duy này, ta có thể khẳng định: Trung Quốc đã và đang
xâm lược Việt Nam một cách toàn diện. Theo đó, không chỉ hàng ngày,
hàng giờ, họ đang gặm nhấm, lấn dần từng tấc đất nơi biên giới (mặc dù
giữa hai nước đã cắm mốc), tấc biển ngoài khơi xa, mà họ còn xâm lược
rất thành công về kinh tế, chính trị, và đặc biệt là về ngoại giao...
Việc Việt Nam không chính thức kỷ niệm 40 năm Trung Quốc cưỡng chiếm
Hoàng Sa (19/01/1974-19/01/2014), 35 năm ngày Trung Quốc xâm lược Việt
Nam (17/02/1979-17/02/2014) cho thấy, cuộc xâm lược của Trung Quốc đối
với Việt Nam đã và đang hết sức thành công, không hề tốn một viên đạn mà
thực hiện được mục tiêu một cách, ngoạn mục, mỹ mãn...
Câu hỏi được đặt ra ở bài này là: tại sao Bắc Kinh lại “ưu tiên” để cắm chốt ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?
Nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ, thì rất có thể thông qua tam giác căn cứ quân sự Du Lâm-Vũng Áng-Cửa Việt, Trung Quốc dễ dàng chia cắt Việt Nam cả về đường biển và đường bộ, thậm chí chia Việt Nam thành hai miền. |
a) Ðối với cảng Cửa Việt, Quảng Trị
Ngày 14 tháng 2, 2014, đài VOA, trong bài viết có tựa đề “Báo động:
Người Trung Quốc lại sắp lập căn cứ ở Quảng Trị,” tác giả là Blogger Lê
Anh Hùng, cho biết:
“Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam (một công ty sản xuất thức ăn
gia súc, thủy sản và chăn nuôi hàng đầu Việt Nam, trước đây thuộc tập
đoàn C.P. Group của Thái Lan, nhưng đã bị Trung Quốc thâu tóm kể từ năm
2011) sắp được giao 96,1ha đất, kéo dài hơn 2km dọc theo bờ biển và chỉ
cách cảng Cửa Việt chưa đầy 1km”(1).
Cũng trong bài viết này, về vị trí chiến lược và sự nhạy cảm của cảng
Cửa Việt, tác giả dẫn lời nhà văn Xuân Ðức, một người con của tỉnh Quảng
Trị, đã viết về thời kỳ chống Mỹ như sau: .”.. cuộc chiến trên cảng Cửa
Việt và sông Cửa Việt nói riêng đã trở thành quyết chiến điểm khốc liệt
nhất có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cả chiến trường Miền Nam.”
b) Ðối với cảng Vũng Áng, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh
Tháng 4, 2006, khu kinh tế Vũng Áng được thành lập, theo Wikipedia có
diện tích tự nhiên 227,81 km2 (22,781 ha). Các hoạt động kinh tế được ưu
tiên phát triển tại khu kinh tế Vũng Áng bao gồm: dịch vụ cảng biển,
công nghiệp luyện kim gắn với lợi thế về tài nguyên và nguồn nguyên liệu
(mỏ sắt Thạch Khê, mỏ titan,...).
Ðáng chú ý là, khu kinh tế Vũng Áng đang được đầu tư dự án nhà máy gang
thép Formosa Hà Tĩnh (2) là một trong những dự án trọng điểm và lớn nhất
của Tập đoàn Formosa (tiền thân là của Ðài Loan, nhưng đã nhượng lại
100% cổ phần cho Trung Quốc?!) với tổng mức đầu tư 15 tỷ USD (gồm hai
giai đoạn), nằm trên diện tích trên 3,300ha, trong đó diện tích đất liền
là hơn 2,000 ha và diện tích mặt nước trên 1,200 ha.
Với quy mô lớn như vậy, thì người Trung Quốc có thể ăn nằm tại khu vực
này khoảng 25 đến 30 năm, vừa để đầu tư xây dựng công trình vừa để khai
thác vận hành nhà máy, vậy là đủ để một thế hệ người Tàu lấy vợ, lập
thành phố người Tàu tại khu vực Kỳ Anh, Hà Tĩnh; sâu xa hơn, có thể là
lực lượng địa phương sau này trong mưu đồ chia cắt Việt Nam thành hai
miền.
Tháng 10, 2013, đài RFA, đăng bài “Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc,”
báo động tình trạng cát cứ của người Trung Quốc tại Vũng Áng, mà hậu
quả về an ninh xã hội tại nơi này qua ý kiến của một người dân được bài
báo trích đăng là:
“...Bây giờ, phần đông gia đình đã bán hết đất cho người Tàu, đất thì
không còn nữa mà con cái thì nghiện ngập, hư hỏng, như vậy, chỗ an thân
cũng không còn mà niềm hy vọng vào tương lai cũng bị đứt gãy. Ðiều này
phải xem lại âm mưu của người Trung Quốc.”
Và đây là nhận định tổng quát của bài báo, khi tác giả nghe từ một phụ nữ:
“Có thể nói rằng có đến 70% thanh niên hư hỏng, nghiện nập. Và bà tỏ ra
hoài nghi sự có mặt của những người Trung Quốc. Bà nghĩ rằng họ đến Kỳ
Anh mua đất làm ăn không đơn thuần, họ có ý đồ không tốt và họ rất nguy
hiểm.”
Nhưng đáng chú ý nhất, báo động đỏ cho tình hình tại Vũng Áng, phải là
một comment (của một người địa phương nơi đây) trong bài: “Nhà văn Phạm
Xuân Nguyên: Cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung là một sự thật lịch
sử không thể xóa bỏ,” đăng trên Blog Dân Quyền (Diễn đàn XHDS) hôm 14
tháng 2, 2014, toàn văn như sau:
“Cảm ơn nhà văn Phạm Xuân Nguyên đã nói lên những suy nghĩ của tôi và
bạn bè tôi - những người đã chiến đấu có người đã anh dũng hy sinh, có
người bị thương... trong cuộc chiến chống Tàu cướp nước tháng 2, 1979,
tại Bắc Luân (Quảng ninh), ở Trung đoàn 288-Quân khu 3.
Tôi cũng rất đau lòng khi vùng đất quê Kỳ Anh (Hà Tĩnh) của anh Nguyên
và chúng tôi đã được cầm quyền ÐCSVN bán cho Trung Quốc hơn 80 km2 thành
khu căn cứ riêng mà chỉ có chức sắc Tỉnh ủy Hà Tĩnh và Ðảng TƯ mới có
thể được Tàu cho vào, còn chủ tịch tỉnh lấy chức danh đó cũng không được
vào [?-NHQ]. Trung Quốc xây tường và nhà cao tầng dọc đường quốc lộ 1
từ Kỳ Anh đến Cẩm Xuyên hơn 20 km, chiếm hoàn toàn biển phía Ðông đường
Quốc lộ 1, để làm gì cũng không ai được biết.
Dân Kỳ Anh (Hà Tĩnh) mất đất, không việc làm. Trai thì cờ bạc, đề đóm,
chích choác ma túy. Gái thanh niên, trung niên cặp nón, ô... môi son, má
phấn, mắt xanh mỏ đỏ vẫy, gọi khách đi xe bắc Nam, công khai làm điếm
vì không có việc làm, đất ở, đất ruộng, cả mồ mả cha ông... nay ÐCSVN
bán cho Tàu rồi. Trai Tàu lấy vợ Kỳ Anh, là mơ ước của gái Kỳ Anh ngày
nay, vì đi làm điếm còn khổ hơn. Người Trung Quốc ở Kỳ Anh không cần
theo luật CHXHCNVN là đi xe máy họ không cần đội mũ, mà công an còn cười
chào thân thiện. Người Kỳ Anh mà đi xe máy không đội mũ thì chỉ có đi
theo ông Trịnh Xuân Tùng - Hà Nội” (4).
Rõ ràng, Trung Quốc đang thực hiện cuộc di dân rất âm thầm, nhưng quyết
liệt và hiệu quả vào lãnh thổ Việt Nam một cách hợp pháp, có sự tiếp tay
của quan chức Việt Nam ở cấp cao, thông qua chính sách đầu tư xây dựng
và khai khoáng.
Vũng Áng quả là một vị chí lý tưởng không chỉ để khống chế Việt Nam về
mặt đường bộ, mà toàn bộ đường biển đi vào Vịnh Bắc Bộ. Một nguy cơ
không thể không được báo động!
2. Tam giác căn cứ quân sự Du Lâm-Vũng Áng-Cửa Việt
Căn cứ hải quân Du Lâm (5) của Trung Quốc, được Bách khoa Toàn thư
Wikipedia giới thiệu: là căn cứ tàu ngầm, nằm ở thành phố Tam Á, ở cực
Nam trên đảo Hải Nam, “là một mối lo an ninh cho các nước ASEAN cũng như
Ấn Ðộ.” Theo bản đồ (kèm theo), từ Du Lâm đến Vũng Áng và Cửa Việt của
Việt Nam, có chiều dài đường chim bay khoảng 320-350 km, trong khi
khoảng cách giữa Vũng Áng đến Cửa Việt theo QL1A là 190 km. Ba đỉnh này
tạo thành một tam giác, và với lực lượng hùng mạnh về tàu ngầm và tàu
chiến mặt nước, Trung Quốc rất dễ dàng chia cắt hai miền của Việt Nam ở
khu vực Vũng Áng và tỉnh Quảng Bình. Kể cả đường bộ và đường biển.
“Ðường lưỡi bò” (màu đỏ) và luồng vận chuyển hàng hải quốc tế (màu trắng). |
Phải chăng việc cấm người Việt Nam ra, vào Vũng Áng và Cửa Việt, bộc lộ ý
đồ Trung Quốc muốn xây dựng hai vị trí này thành căn cứ quân sự bí mật
của họ, phục vụ cho việc chia cắt Việt Nam bằng lực lượng hải quân khi
chiến sự xảy ra. Ðây chính là đáp án trả lời cho câu hỏi: tại sao Bắc
Kinh lại “ưu tiên” để cắm chốt ở Hà Tĩnh và Quảng Trị.
(Nên nhớ, Quảng Bình, nơi nằm giữa Vũng Áng và Cửa Việt, là vùng đất hẹp
nhất trên dải đất hình chữ S của Việt Nam, bề rộng chỉ hơn 40 km tính
từ bờ biển đến biên giới Việt-Lào).
3. Vũng Áng - Cửa Việt và việc thực hiện “đường lưỡi bò”
Ta dễ dàng nhận thấy, phần lớn chiều dài về phía Nam của “đường lưỡi bò”
nằm trên lãnh hải chủ quyền của Việt Nam và Philippines; trong khi, do
khu vực Quần đảo Trường Sa gồm nhiều đảo nhỏ, biển nông, luồng tàu
hẹp... cho nên, theo bản đồ trên đây, ta thấy luồng vận chuyển của các
tàu viễn dương quốc tế chỉ đi trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
(đường màu trắng mờ).
Liệu Trung Quốc có thể khống chế diện tích theo “đường lưỡi bò” mà họ đã
tuyên bố hay chăng? Tất nhiên, chỉ với điều kiện Trung Quốc khống chế
được Việt Nam. Xin dẫn một đoạn về tham vọng của Mao Trạch Ðông: “Chủ
tịch Mao Trạch Ðông (còn) khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965: Chúng
ta phải giành cho được Ðông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam,
Thái Lan, Miến Ðiện, Malayxia và Singapor... Một vùng như Ðông Nam Châu Á
rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản... xứng đáng với sự tốn kém cần
thiết để chiếm lấy... Sau khi giành được Ðông Nam Châu Á, chúng ta có
thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ
có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Ðông Âu, gió Ðông sẽ thổi bạt
gió Tây....”
(Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật,
1979). Như vậy, tham vọng chia cắt Việt Nam một lần nữa như đã nói trên,
không phải là không có căn cứ, với bọn Bá quyền Ðại Hán Bắc Kinh, thì
mọi việc đều có thể.
4. Vài lời kết
1. Không ngẫu nhiên mà Trung Quốc thực hiện đầu tư lớn vào hai vị trí
Vũng Áng, Kỳ Anh, Hà Tĩnh và cảng Cửa Việt, tỉnh Quảng Trị. Thời gian
đầu tư dài, trên một dải đất hẹp nhất của Việt Nam, đủ điều kiện để
Trung Quốc thay người Việt ở hai địa phương này bằng người Tàu. Rất có
thể có nguy cơ đến một thời điểm thích hợp (sau 15-25 năm), Trung Quốc
sẽ phát động chiến tranh và chia đôi Việt Nam một lần nữa để mưu chiếm
toàn bộ Biển Ðông.
2. Nếu vẫn tiếp tục để Trung Quốc lộng hành và không kiểm soát được họ
tại hai địa điểm nói trên thì đó là sai lầm mang tính lịch sử. Nhân dịp
35 năm ngày xảy ra chiến tranh Trung Quốc xâm lược Việt Nam
(17/02/1979-17/02/2014), việc để Trung Quốc bất ngờ phát động và xâm
lược trên toàn cõi biên giới phía Bắc đêm 16 rạng sáng ngày 17 tháng 2,
1979, mà phía Việt Nam không hề hay biết, là bài học cảnh giác, nếu như
còn muốn Việt Nam tồn tại như một quốc gia độc lập, mà không muốn bị
chia cắt một lần nữa hoặc tự biến thành một tỉnh của Trung Quốc.
Ngày 15 và 16 tháng 2, 2014
(Nguồn Bauxite Việt Nam)
(Nguồn Bauxite Việt Nam)
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Sống hài hòa hay nhu nhược với TQ?
Trong thời gian gần đây, giữa lúc Bắc Kinh ngày càng lấn áp VN về hầu như mọi mặt, nhất là liên quan vấn đề lãnh hải, lãnh thổ, thì phản ứng của phía cầm quyền trong nước bị công luận cáo giác là “ hèn với giặc, ác với dân”. Nhưng vấn đề là cư xử yếu hèn với phương Bắc liệu họ có “tha” cho mình không?
Mong chút tình ‘hữu nghị’?
Trong mối quan hệ Việt-Trung lâu nay, diễn biến bất lợi dồn dập về phía VN có lẽ khiến không ít người liên tưởng tới, cách nay ít lâu, khi lên tiếng trước cử tọa qua diễn văn đáp từ trong buổi lễ nhận chức GS Danh dự trường Đại học Y khoa Hà Nội, giáo sư Thạch Nguyễn, chuyên gia nỗi tiếng về tim mạch của Hoa Kỳ, từng công tác lâu năm tại Á Châu, nhất là ở TQ, có lưu ý rằng “Không phải cứ qụy lụy, hạ mình luồn cúi thì người Trung Quốc sẽ ban thêm cho chút tình ‘hữu nghị’ và cơ hội ‘hợp tác’ đâu”.Khi đề cập tới dòng lịch sử hàng ngàn năm của VN từng trải qua cảnh “TQ luôn muốn biến đất Nam Việt thành một tỉnh của họ nhưng không thành. Các đoàn quân với binh hùng, tướng mạnh sau những cuộc chinh phục lẫy lừng ở nhiều nơi khác, lúc đến biên cương Việt Nam đều phải khựng lại vì sức kháng cự của dân Việt”, nhà báo tự do Bùi Văn Phú cảnh báo rằng “hiểm họa xâm lăng từ phương bắc thời nào, lúc nào cũng có”. Trận hải chiến đẫm máu ở Hòang Sa hồi năm 74, chiến tranh biên giới Viêt-Trung vào năm 1979 khiến 6 vạn chiến sĩ và thường dân Việt hy sinh, biến cố đẫm máu Gạc Ma ở Trường Sa năm 1988 là những thí dụ hãy còn nóng bỏng trong dòng lịch sử cận đại VN.
Đối với TQ, chiến lược lâu dài là họ muốn khuất phục VN, muốn chiếm VN. Còn những chiến thuật trước mắt, từng bước từng bước, là họ làm như là họ giúp đỡ, họ quý VN.Có lẽ bối cảnh như vậy khiến nhà báo Hạ Đình Nguyên không khỏi mạnh mẽ báo động – nếu không muốn nói là cáo giác – rằng “ 35 năm trước, Đặng Tiểu Bình đã “dạy Việt Nam một bài học”. Bài học ấy chính là sự ngây thơ tin vào một thứ ý thức hệ không bình thường, ảo tưởng về một thứ ‘tình cảm anh em’ không đúng chỗ”.
-GS Nguyễn Thế Hùng
Nhà báo Trần Khải than rằng “ thế mới biết, trước giờ Việt Nam vẫn tin vào đàn anh Trung Quốc chỉ là nằm mơ, chỉ là mò trăng đáy nước. Chủ nghĩa xã hội tiêu tùng rồi, chủ nghĩa bành trước Đại Hán vẫn không ngừng vươn xa...!”.
Từ Đà Nẵng, GS Nguyễn Thế Hùng lên tiếng:
“Đối với TQ, chiến lược lâu dài là họ muốn khuất phục VN, muốn chiếm VN. Còn những chiến thuật trước mắt, từng bước từng bước, là họ làm như là họ giúp đỡ, họ quý VN. Nhưng thật ra không phải như thế. Và đối với TQ, họ được đằng chân họ lân đằng đầu. Cho nên giới cầm quyền VN bây giờ không thể cứ chìu theo ý của họ, nhân nhượng họ là họ tha cho đâu. Không phải như vậy. Mà đó là những chiến thuật để Bắc Kinh lấy lòng. Hành động của TQ đối với VN giống như tằm ăn dâu - con tằm ăn lá dâu mình nhìn không thấy đâu, nhưng nó gặm nhấm một tí một tí.Tức là đối với TQ, họ lấn VN hết chỗ này đến chỗ khác.”
Lý do dễ hiểu?
Khi nhận định về vấn đề “VN giữa ý thức hệ và chủ nghĩa quốc gia”, TS Nguyễn Hưng Quốc từ Úc thẳng thừng nêu lên câu hỏi rằng tại sao nhà cầm quyền Việt Nam lại cứ khăng khăng bám víu vào cái ý thức hệ cũ kỹ như vậy để nhắm mắt trước nguy cơ lấn chiếm của Trung Quốc và sẵn sàng đạp vào mặt người dân Việt yêu nước? Và GS Nguyễn Hưng Quốc tìm được “lý do tương đối dễ hiểu”, đó là giới cầm quyền VN “sợ Trung Quốc hơn sợ dân” của mình.
Nhắc tới chuyện hành hạ người yêu nước chống phương Bắc xâm lược, có lẽ nhận xét của GS Tương Lai khi lên tiếng mới đây với Đài ACTD cho thấy rõ điều này:
“Ở đây, nó nói lên thảm cảnh đất nước hiện nay. Cái thời mà Lê Chiêu Thống cầu viện Tôn Sĩ Nghị cũng không nhục nhã như hiện nay. Trước các sức ép, vừa mới thò mồm ra nói được một câu thì sau đó thụt lại, đấy là vấn đề. Đâu phải chỉ là vấn đề chiến tranh biên giới? Ngay như hôm qua về cái án phúc thẩm của Luật sư Lê Quốc Quân, thực ra gần như đã có thỏa thuận và người ta biết rằng Lê Quốc Quân là một trong những người cùng với vài người khác như Điếu Cày…được hứa hẹn sẽ được thả, nhưng cuối cùng có cái sức ép nào đấy buộc chưa thể được và vẫn y án. Đấy là nỗi đau của một đường lối sai lầm và nó khởi sự từ Hội nghị Thành Đô cho đến bây giờ.”
Cái thời mà Lê Chiêu Thống cầu viện Tôn Sĩ Nghị cũng không nhục nhã như hiện nay. Trước các sức ép, vừa mới thò mồm ra nói được một câu thì sau đó thụt lại, đấy là vấn đề.Đặc biệt là kể từ khi Hà Nội bị “sụp bẫy Thành Đô” hồi năm 1991 đến nay, chuyện Trung Nam Hải khống chế xứ đàn em phương Nam xem chừng như ngày càng sâu đậm, khiến GS Nguyễn Thế Hùng không khỏi báo động rằng hiện giờ, một trong những vấn đề quan trọng nhất là Bắc Kinh can thiệp vào nhân sự cấp cao của VN – rất nguy hiểm. Theo GS Nguyễn Thế Hùng, một dân tộc mà bị ngọai bang can thiệp vào nhân sự cấp cao như thế thì cực kỳ nguy hiểm, cộng thêm một trong những nỗi bất hạnh nhất của VN là nằm ở cạnh người đàn anh khổng lồ “4 tốt và 16 chữ vàng” - mà lại nằm ngay trên con đường mà GS Nguyễn Thế Hùng mô tả là Hoa Lục âm mưu “mở mang bờ cõi phải đi ngang qua VN”. GS Nguyễn Thế Hùng nhận thấy:
-GS Tương Lai
“Sự bất hạnh đó, ông cha chúng ta từ hàng ngàn năm nay rồi đã biết rằng sống cạnh bên TQ thì một trong những yếu tố thiết yếu là phải đại đòan kết dân tộc. Ví dụ như nhà Trần ba lần đại thắng quân Nguyên Mông thì cũng nhờ đại đòan kết dân tộc. Do đó, bất cứ chế độ nào mà muốn tồn tại lâu dài thì, trước hết, là trong ấm thì ngòai mới êm được. Trong ấm tức là phải đại đòan kết dân tộc. Cho nên cái thời Lê Chiêu Thống người ta không ủng hộ. Lê Chiêu thống thần phục, luồn cúi, cầu cứu Tàu. Những hành động đó, hàng ngàn năm, để lại tiếng xấu muôn đời. Do vậy, tôi nghĩ là giới lãnh đạo VN ngày nay, nếu quả thực nhìn xa trông rộng, thì họ phải nghĩ hàng ngàn năm sau đối với dân tộc này: Dân tộc sẽ vinh danh họ hay nguyền rủa họ đời đời như trường hợp Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc…Như thế thì không phải giới cầm quyền VN hiện nay chìu TQ, tỏ ra sợ sệt, làm theo ý họ thì họ tha đâu. Không phải vậy đâu. Cái chiến thuật của Hoa Lục là lần lần túm cổ để rồi nắm yết hầu VN, để sau cùng, VN chết đến nơi!”
Cũng theo dòng lịch sử VN, GS Trần Khuê từ Saigòn nhận thấy giữa VN với TQ xưa nay bao giờ cũng có mâu thuẫn, nhưng các vị vua chúa VN ngày xưa vẫn có chính sách là bên ngoài thì làm mặt hòa hoãn còn trong vẫn kiên quyết giữ vững chủ quyền. GS Trần Khuê nhấn mạnh rằng hòa hoãn chứ “không thể nhu nhược được”, ông nói thêm:
“Tại hội nghị Biển Đông vừa rồi, tôi vẫn nói là VN mềm dẻo chứ không thể mềm nhũn để rồi Bắc Kinh muốn làm gì thì làm. Không thể có cái thái độ nhu nhược, hèn yếu như vậy được. Cho nên, ông đại diện của Đại sứ quán Mỹ hồi ấy hỏi tôi rằng “Thầy nói là đi với Tàu thì mất nước còn đi với Mỹ thì mất đảng. Theo ý thầy thì thế nào?”. Tôi đáp, “Chỉ có đi với nhân dân là không mất cái gì cả. Mà còn được tất cả”. Do đó, tốt hơn hết là giới cầm quyền đi với nhân dân. Đối với TQ, bề ngoài thì mình giữ hòa hiếu thế thôi chứ bên trong thì VN phải luôn luôn cảnh giác, chứ không thể nào hèn yếu với họ được.”
Nếu hèn yếu, thì, như GS Nhật Noboyoshi thường nhắc nhở học giả, viên chức xứ Phù Tang đến hội họp hay công tác ở Bắc Kinh về một ngạn ngữ thông dụng tại chính Hoa Lục, rằng “Nếu bạn xử sự như một con lừa thì đừng ngạc nhiên là hôm nào đó, có người cưỡi trên lưng trên cổ bạn”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét