Bông Hồng Kính Tặng Các Chị…“Vợ Lính”
Tên
cai tù trại Vĩnh Quang lật qua lật lại, xoay ngược xoay xuôi tờ đơn xin
thăm nuôi chồng của chị K.A, mặc dầu tờ đơn này đã nhầu nát gần như tả
tơi bởi qua tay các cơ quan ở địa phương để được đóng ba con dấu từ khó
Tác Giả PhiLaTo
Tác Giả PhiLaTo
Tên
cai tù trại Vĩnh Quang lật qua lật lại, xoay ngược xoay xuôi tờ đơn xin
thăm nuôi chồng của chị K.A, mặc dầu tờ đơn này đã nhầu nát gần như tả
tơi bởi qua tay các cơ quan ở địa phương để được đóng ba con dấu từ
khóm, phường tới quận, hồi lâu hắn vất trả lại, giọng nghiêm chỉnh đúng
tiêu chuẩn Xã Hội Chủ Nghĩa:
- Chồng chị vi phạm lội qui, cải thiện ninh tinh, nười nao động lên bị trại cắt thăm luôi, chị phải ráo rục chồng chị sớm rác ngộ để nần sau sẽ được cứu xét.
Nghe
như sét đánh mang tai, bình thường thì chị cầm tờ giấy quay lui, không
bõ phí phạm một chút nước miếng, nhưng vì thương chồng, vượt ba ngày
đường chỉ để nhìn anh mà không được hay sao! Cố gắng nuốt cục nghẹn đang
chặn ngang cổ để khỏi phải lợm giọng phun ra, chị chưa biết tính sao,
có nên xuống nước năn nỉ tên này hay không? Có nên tránh trâu để khỏi bị
trâu đánh với hy vọng được trông thấy chồng? Bất chợt chị nhìn cái đồng
hồ vỏ Seiko ruột nội hóa mà chị đeo nơi cổ tay, chị có dư thông minh
biết phải làm gì. Cuối cùng tên cai tù cầm cái vỏ Seiko cho nhanh vào
túi áo, gật gù cái đầu nhưng cũng giả bộ xẵng giọng:
- Vì chính sách khoan hồng nhân đạo của đảng và nhà lước ta, lay thay mặt trại, chúng tôi chiếu cố cho chị gặp chồng ba mươi phút, nhưng phải chấp hành đúng lội quy và vận động chồng chị học tập tốt, nao động tốt.
Tai
chị ù đi, chẳng cần nghe hắn nói tiếp những gì, cho tới khi nhìn thấy
anh, được gặp anh là hạnh phúc lắm rồi, dù cho còn có chướng ngại vật là
cái bàn như con sông quái ác ngăn đôi vợ chồng, kèm theo tên cán bộ như
thần chết đứng gần đấy dòm chừng!
Cái
bàn như con sông chia đôi hai bờ nam bắc, tay cùng vươn tới nhưng không
được cầm tay để truyền hơi ấm, chỉ có mắt trao đổi tình yêu thương,
ngàn lời nói cũng không đủ, nhưng vừa mới nhìn nhau chưa kịp chớp mắt
thì “thần chết” đã vung lưỡi hái lên cố tình để lộ cái “đổng” không
người lái rồi tuyên bố hết giờ!
Văn
minh thật! Chị nghĩ thầm và cũng thầm khen bọn Cộng Sản tiến bộ rất
nhanh, từ lúc hắn mang bộ mặt đồ đá, quá độ sang đồ sạo, cầm xong cái
“đổng” là hắn mau chóng tiến tới thời kỳ đồ đểu, chỉ trong vòng mười lăm
phút, sao mà chúng có thể trở mặt nhanh đến thế! Thời gian cũng chạy
nhanh theo thói xảo trá của chúng đến thế sao! Chị liếc nhìn xuống cái
chỗ của mình ngồi rồi nhìn lên mấy ngôi sao đỏ trên cổ áo tên cai tù mà
giận cành hông, rủa thầm: “Mặt chúng mày toàn là một lũ đồ đỏ!”
Chị
biết chúng nó đã ăn gian, chúng muốn kiếm chuyện hết giờ để lột thêm cả
những thứ ở phía dưới! Chị nhìn xuống chỉ còn đôi dép Nhật mòn gót
dưới chân! Nhưng thôi, chả cần thiết phải phí phạm thêm vài giọt nước
bọt, nhìn thấy anh chưa bị vùi thân dưới chân đồi, bên nương sắn như một
số đồng tù bất hạnh khác là được rồi, nếu ngồi thêm dăm ba phút nữa thì
chị là người sẽ vi phạm nội quy vì ôm chồng, chứ không phải vì anh nắm
tay vợ.
Vừa
bước ra khỏi cửa nhà “thăm nuôi”, anh quay vào nhà tù nhỏ, chị trở về
nhà tù lớn, hai vợ chồng đã bị khuất mắt bởi những đồi sắn, núi khoai mì
trùng trùng điệp điệp, cả hai chinh phu và chinh phụ thời hậu 1975 cùng
vừa ngoái đầu quay lại, vừa đi lui, đi giật lùi mà ruột gan như sát
muối:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy.
Thấy xanh xanh những núi rừng khoai
…………….
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”
Chuyện
đi thăm chồng của người vợ lính ở các trại tẩy não đều cùng hoàn cảnh
tương tự như thế cả, sau vài ngày đường xa vất vả, bám theo tầu hỏa nóng
như lửa, tới miền Bắc, cái nôi của Xã Hội Chủ Nghĩa lại bám theo xe
trâu, cúi đầu đi theo lũ “bò vàng” tay dắt con nhỏ, chân lội bộ cả ngày
đường, vén quần vượt suối, ôm bụng lội bến phà Trang, vượt trăm gian
ngàn khổ, đứng ngoài vòng rào ngóng cổ trông chồng, người thì thấy, kẻ
thì không, không biết các anh còn hay đã “lên đồi,” nỗi thống khổ này dễ
mấy ai biết!
Sách
các anh viết về đời sống “thú ơi là thú!” trong các trại tù thì bày bán
tràn ngập phố phường, nhưng những bước đường các em đi đến trại giam
thăm người yêu, vợ lần mò khắp rừng sâu núi thẳm để thăm chồng, vẫn
không thấy câu thơ bài văn nào nói đến cả! Các anh ngày xưa có ngòi bút
tài hoa lả lướt biến đâu rồi? Dẫu cho nay mực của các anh còn hay đã
cạn, cũng mạnh dạn vươn vai đứng lên cố nguệch-ngoạc viết cho chúng em
đôi điều, gọi là còn một chút gì để nhớ để thương, chứ các anh cứ tả
cảnh tả tình bọn gian manh hành hạ các anh mà không viết vài lời gọi là
cám ơn vợ đi nuôi chồng khiến chúng em vẫn ngóng cổ cò, như con cò lặn
lội bờ sông gánh gạo nuôi chồng thì chờ đến bao giờ mới được đọc hồi ký
các anh viết về chuyện vợ đi nuôi tù?
Sau
những ngày tháng bòn mót sửa soạn rồi lặn lội từ Nam ra Bắc, từ đồng
bằng lên đồi cao rừng sâu núi thẳm để thăm nuôi chồng, ba ngày đường đổi
lấy ba mươi phút, mắt nhìn mắt mà tay chẳng được cầm tay, rồi chàng trở
về trong song sắt, nàng lững thững ngoài chân mây!
Nếu
như chúng ta đã có những bài thơ hay, bài nhạc hùng ca tụng người lính
thì lại thiếu nhiều lời nói về người những người mẹ, người vợ, người đẻ
ra lính, nuôi lính, những người đứng sau lưng làm chỗ dựa vững chắc cho
lính tiến về phía trước, bước ra sa trường. Những người mà các chàng
Không Quân hào hoa như Văn Ức, Nguyễn Duy Diệm, Võ ý gọi là người lái
“phi công”, ông Bộ Binh tôn vinh là hoàng hậu chiến trường, Nhẩy Dù Đích
Thân “Anh 23, Em 19, Út 22 v.v..” nâng nàng lên hàng nội tướng, Biệt
Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Pháo Binh, Thiết Giáp âu yếm phong làm
tổng chỉ huy hậu phương, nội tướng, dễ thương hơn thì gọi là “nàng dâu”
Võ Bị, Thủ Đức, Đồng Đế v.v. Là gì đi nữa thì chính “bà” mới là người
góp công lao đem đến chiến thắng của các anh, nhưng họ lại âm thầm hứng
chịu quá nhiều cay đắng, vẫn vắng lời thì thầm bên tai: “Cám Ơn Em.”
Từ khi biết anh thích mầu trời, em đã bồi hồi chọn mầu áo xanh,
nhưng rồi anh Không Quân bay bổng trời cao. Anh Mũ Xanh hành quân bốn
vùng chiến thuật, sống hùng sống mạnh nhưng không sống lâu! Anh Hải Quân
lắc lư con tầu đi, anh Cọp Rằn hô “Biệt Ðộng Sát”, anh ôm Dù mải mê hô
“cố gắng,” nên chúng em chẳng thấy bóng các anh đâu!
Dẫu
cho có về hậu cứ nghỉ ngơi một vài ngày để tái trang bị thì vẫn ứng
chiến, vẫn cấm trại! Có đúng thế không hay anh lại phịa ra chuyện đi
hành quân vùng hậu tuyến khu trên, xóm dưới? Biết anh nói dối nhưng
chúng em vẫn bồi hồi cố tin lời anh nói:
“Một trăm em ơi! Chiều nay (cấm trại) một trăm phần trăm.”
Người
chinh phụ tân thời đưa vai gánh vác giang sơn nhà chồng, hiếu với cha
yếu mẹ già, nuôi đàn con dại để chinh phu rong ruổi từ Bến Hải tới Cà
Mau, đêm đêm nghe tiếng súng đại bác từ xa vọng về, ôm con nguyện cầu
ông bà tổ tiên Chúa Phật cho chinh nhân bình an trở về
Chinh nhân ơi, xin anh trở về.
… Anh về rồi anh lại đi ngay, có khi đi mãi không bao giờ trở lại!
Ðất
nước tôi chiến tranh bao trùm nhiều thế hệ, giặc Tầu, giặc Tây, giặc
Cộng, nhiều tuổi trẻ đã thay nhau ra chiến trường, có anh trở về thì đã
hòm gỗ cài hoa em thành quả phụ! May mắn hơn, anh về trên chiếc băng-ca,
anh đu mình trên đôi nạng gỗ, dù có như thế nào đi nữa, dẫu có để lại
một phần thân thể nơi chiến trường, ngày anh trở lại các em vẫn hạnh
phúc, không bao giờ làm dang dở đời em.
Ai
đã từng là thân nhân của lính, mẹ lính, vợ lính đều có những giây phút
căng thẳng lo sợ đến tột cùng khi đứng lặng nhìn những xe cứu thương hối
hả lao về phía bệnh viện, những xe GMC chở quan tài phủ cờ lặng lẽ trên
đường phố, những chiếc xe jeep đầy vết đạn từ mặt trận trở về, tìm đến
xóm nhà mình ở.
Thấy
xe jeep đậu xịch trước cửa, em vội vàng lấy tay đè lên ngực như muốn
ngộp thở, anh về phép với mẹ con em hay nhân viên hậu cứ đi tìm nhà báo
tin anh đã hy sinh vì tổ quốc? Ðời vợ lính mãi mãi sống trong hồi hộp lo
âu như thế! Kinh Thánh nói: “Con người ta sống không chỉ bằng cơm áo mà
còn phải sống bằng tình thương!” Ai có sống trong hoàn cảnh trông chờ
người thân yêu mới thấy thương người vợ lính, lúc nào đầu cũng đau như
búa bổ khi nhớ đến “nửa mình” còn mải mê với súng đạn.
Người
lính quanh năm suốt tháng miệt mài xông pha nơi chiến trường, mấy ai có
dư thì giờ nghĩ đến hậu phương mà buồn mà lo! Lo là lo cho tròn nhiệm
vụ, anh Bộ Binh lo tiến chiếm mục tiêu bằng mọi giá, cái giá anh phải
trả là chính thân xác các anh. Anh Không Quân lo sao thả vài trái 500
cân cho trúng đầu người “anh em” dưới đất mà quên đi những viên đạn 12
ly 7 từ dưới đất bay lên. Nó “hit and run” khiến anh nằm xuống nhẹ nhàng
thanh thản, không còn đớn đau sầu oán. Một hỏa tiễn SA7 bay lên làm nổ
tung chim sắt, cả chim sắt lẫn chim người cùng trở về với đất, anh không
đau mà cũng chả buồn, người buồn là chúng em, những người “lái phi
công.”
Chim ăn biển Bắc người tìm biển Ðông
cũng còn có ngày gặp, nhưng anh rơi với chim sắt thì không bao giờ em
còn thấy nữa! Đêm đêm em về tìm anh trên vách, chỉ bóng mình bảo cho con
là bố đó, bố con là Không Quân, Bộ Binh, Nhảy Dù, Thiết Giáp, Thủy Quân
Lục Chiến, những người sống hùng, sống mạnh nhưng không sống lâu, bố
con là người hùng!
Khi
bị “gẫy súng” nghỉ cuộc chơi, người Không Quân gãy cánh, bỏ bầu trời
xanh, anh Hải Quân không còn được yêu đời biển cả mà lắc lư con tầu đi
trên đất lạ, chàng Kỵ Binh xếp áo giáp loang vết máu gục đầu trên pháo
tháp! Sao anh không về đây gục đầu trên vai em? Pháo Binh súng to và dài
thì xếp càng, bỏ lựu đạn lân tinh vào long, để mặc cho địch tự do ngày
đêm pháo kích rung rinh tan nát đời vợ lính!
Cuộc chiến tàn nhưng không thanh bình, ngày trở về, anh không về chống nạng cày bừa bên người yêu sẵn lòng giúp đỡ mà lại chống gậy vào tù, khiến người vợ lính lại hóa kiếp thành người vợ tù, vẫn phải tiếp tục chiến đấu.
Bao
đau thương cực khổ suốt đời của người vợ lính nay cô đọng thành chén
thuốc đắng, thuốc đắng không giã tật, mà làm người vợ lính thành tàn tật
cả thể xác lẫn tâm hồn. Con cò lặn lội bờ sông, đầu đường xó chợ, dãi
nắng dầm mưa, kiếm gạo nuôi con nuôi chồng, còn nước mắt đâu để mà khóc
nỉ với non!
Dù
quan hay lính thì ngày xa xưa còn có dịp lên xe (jeep) xuống ngựa
(sắt), cuối tháng bắt tí tiền còm đưa hiền thê tiền lính tính liền, nay
không còn cách tính nào hơn là chôm đồ nhà đem đi bán.
Nếu
như trước đây hào hoa nhất lính Không Quân, có mỗi cái quần anh cũng
bán đi, sáng mai anh mặc bằng gì? Anh mặc cái áo anh đi lòm khòm chỉ vì
cái tật “cú lũ tàng tàng” thì nay nàng “lái phi công” không còn xu nào
để chi mà chỉ hoa cả mắt vì vật lộn mưu sinh, nên bắt buộc còn cái quần
lót cũng phải bán đi để tiếp tế cho chồng trong tù được thêm hũ mắm
ruốc, nắm thuốc rê v.v.
Chuyện
tưởng như đùa mà có thật, chuyện kể rằng chị XYZ, người lái phi công
nhận được thư chồng xin tiếp tế, nhìn quanh nhà chẳng còn gì để bòn để
mót, chỉ còn một xếp quần lót bảy mầu -Monday to Sunday- khi đi du học
từ Mỹ quốc trở về, anh đem đến tặng em làm kỷ niệm, em vẫn giữ kỹ để
dành hơi mong tặng lại anh khi về phép. Nay thì thôi đành biến những kỷ
niệm ấy thành hũ mắm ruốc, bánh thuốc lào. Trong tù, ăn mắm ruốc anh sẽ
nhớ đến em, hút thuốc lào anh thấy hình ảnh em qua làn khói.
Bên
cạnh những khó khăn vật chất, người vợ tù còn phải thắt dây lưng, buộc
bụng cho thật chắc để chiến đấu chống chính sách khoan hồng (vô) nhân
đạo của cái đảng tà ma là: “Nhà ngụy ta ở, con ngụy sai làm đầy tớ, vợ
ngụy ta cướp!”
Ðây
mới chính là mặt trận gay cấn rất nguy hiểm mà người vợ lính phải đối
phó, nó mờ-mờ ảo-ảo khôn lường, chiến trường khốc liệt như vậy mà tuyệt
đại đa số các chị em đã chiến thắng, vẫn chờ tới ngày các anh được thả
về. Nếu như ngày xưa ngoài chiến trường, đối đầu với kẻ thù, các anh đã
chiến thắng bằng súng đạn rồi thăng cấp, rồi huy chương cuống, huy
chương thòng mang lủng là lủng lẳng trên ngực, nay các chị chiến thắng ở
mặt trận “tình trường” là chỉ cốt bảo toàn “lãnh thổ” để chờ đợi anh về
mà thôi, không cần huy chương, không lo sợ bị thăng cấp làm “vợ cả.”
Giả
thử, giả thử thôi, sau 30 tháng 4, 1975 chị em vợ lính vào tù, còn các
anh ở lại săn sóc con dại, phụng dưỡng cha mẹ già thì các anh đi thăm
nuôi vợ được mấy lần? Nếu phải chiến đấu chống lại chính sách của địch
là “nhà ngụy ta ở, chồng ngụy ta lấy” thì các anh có chống chọi nổi với
những nữ Việt Cộng không, dẫu cho họ không hương không sắc, là những phụ
nữ Xã Hội Chủ Nghĩa “trước sau như một*” (vu khống), thì có bao nhiêu
anh sẽ bị gục ngã trên “tình trường” này? Nói thực tâm đi.
Chịu
thua hả? Vậy thì đã có anh chồng nào nói lời cám ơn vợ thay cho tấm huy
chương về sự chiến thắng của các chị chưa? Chưa hả? Thế thì nói đi là
vừa, muộn còn hơn không, một bông hồng trao tận tay trong ngày đại hội,
ngày họp khóa, ngày sinh nhật, ngày “va-lăn-thai”, ngày lễ Tạ Ơn, ngày
“hấp hôn” lần thứ 40, 50...
Ðoạn
trường, đoạn trường lại đoạn trường, chúng ta còn sống sót sau cuộc
chiến và còn có dịp may mắn gặp lại nhau trên đất khách lưu vong, ai có
niềm tin thì cho đó là một đặc ân của Thượng Ðế, ai còn máu mê cờ bạc đỏ
đen thì cho đó, gọi đó là bon-nớt v.v.
tất cả chúng ta cũng nên công bằng một tí. Khi vợ gọi thì “có anh đây”
và thêm một chút, chút thời gian để nghĩ đến đồng đội còn ở lại, họ đã
trả nợ Tổ Quốc xong cả vốn lẫn lời thì chúng ta chớ vội vác cờ đi đón
gió, hãy dành cho các bạn ấy một chỗ nho nhỏ trong trái tim ta, cụ thể
là nghĩ đến những anh em thương (phế) binh Việt Nam Cộng Hòa trước khi
mở bàn tay vì bác ái đối với người dân Xã Hội Chủ Nghĩa. (!)
Còn
người bạn đời của anh em chúng ta, nay đã trở thành các “bà” tuy được
an hưởng hạnh phúc lúc tuổi “chưa” già bên sự thành công của con cháu
nhưng vẫn không quên khổ đau quá khứ, và hiện tại, trong người lại thêm
nhiều chất “cao” khó trị! Các anh đâu? Hay mau mau dìu các chị đi trị,
nói lại cho rõ là đi điều trị bệnh cao mỡ, cao máu, tiểu đường, sạn thận
v.v.
Những
dịp họp đại hội, họp khóa của các anh thuộc mọi quân binh chủng và quân
trường, các anh đã, đang và sẽ nâng niu bông hồng để tặng người yêu cho
đôi má thêm hồng, nụ cười thêm duyên, sức có hạn, không cần nhiều, nụ
hôn trên má đủ chiều lòng nhau.
Nhân
dịp lễ Tạ Ơn, lễ Giáng Sinh và năm mới, người viết xin tạ ơn quý chị vợ
lính đã chờ đợi lính đi hành quân, nuôi lính trong tù. Xin chân thành
cầu chúc tất cả các chị vợ lính thuộc mọi quân binh chủng, những người
điều khiển hạm trưởng, những vị lái phi công và cả nhà tôi nữa mãi mãi
thật vui tươi và khỏe mạnh để cùng các anh tu bổ và bảo trì cái hạnh
phúc đang ở trong tầm tay, đó là những hạnh phúc có thật.
Chúng
ta, “vỏ khoai hay vỏ bí”, Võ Bị hay Thủ Đức, Mũ Nâu, Mũ Đỏ, Mũ Xanh, Mũ
Đen v.v. nay không còn ở cái tuổi xung phong ào ào vào mục tiêu nữa mà
đang “từng bước, từng bước thầm” tiến lên đồi cao! Chúc các anh cái gì
cũng mới, trừ tình yêu, đừng có tình yêu mới. Chớ vì vốn sẵn mang trong
máu cái tính hào hoa mà phải lặn lội về phương Ðông xa xôi, trâu già ham
gặm cỏ non để tìm, để chọn cái gọi là hạnh phúc, cái hạnh phúc ấy
hao-hào (tốn tiền) mà lại nhiều hoa (liễu) sẽ mang họa vào thân vì những
quỷ thần mang tên “ếch”, dính vào HIV thì thiệt thân.
Thân không bại thì chân... cũng liệt!
PhiLaTo
Tân Sơn Hòa chuyển
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét