Thứ Ba, 21 tháng 9, 2010

Chị Hằng và Thằng Cuội

Nguyễn sơn hà

Nhân đọc bài của tiên sinh Nguyễn Việt Nho về “Giải Mã Huyền Thoại Việt” đăng trên “anviettoancau.net” tháng này (09/2010), tác giả đã viết : “Có thể nói không sai là : trong khắp cùng các nền văn hóa của nhân loại không thể tìm đâu ra thể loại huyền thoại tương tự ; tôi hoàn toàn đồng ý với tác giả. Nên để gọi là chút quà mọn làm bánh trung thu hầu chia sẻ với độc giả của An-Việt để thưởng thức tinh hoa Minh Triết Việt nhân dịp tết Trung Thu, tôi xin mạo muội giải mã hai huyền thoại bất hủ này của dân tộc Việt từ ngàn xưa, mà tôi chọn làm tựa đề cho bài viết này.
Huyền thoại chị Hằng…
Tương truyền, vào thời xa xưa, trên trời xuất hiện mười ông mặt trời, cùng chiếu xuống mặt đất nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn, người dân gần như không thể sống nổi. Chuyện này đã làm kinh động đến một anh hùng tên là Hậu Nghệ. Anh đã trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Hậu Nghệ đã lập nên thần công cái thế, nhận được sự tôn kính và yêu mến của mọi người, rất nhiều chí sĩ mộ danh đã tìm đến tầm sư học đạo, trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm thuật bất chính.
Không lâu sau, Hậu Nghệ lấy một người vợ xinh đẹp, tốt bụng, tên là Hằng Nga. Ngoài dạy học săn bắn, cả ngày Hậu Nghệ luôn ở bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng mộ đôi vợ chồng trai tài gái sắc này.

Một hôm, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn, trên đường tình cờ gặp được Vương mẫu nương nương đi ngang qua, bèn xin Vương mẫu thuốc trường sinh bất tử. Nghe nói, uống thuốc này vào, sẽ lập tức được bay lên trời thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ không nỡ rời xa vợ hiền, đành tạm thời đưa thuốc bất tử cho Hằng Nga cất giữ. Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng gương lược của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.
Ba ngày sau, Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông với tâm địa xấu xa đã giả vờ lâm bệnh, xin ở lại. Đợi Hậu Nghệ dẫn các học trò đi không lâu, Bồng Mông tay cầm bảo kiếm, đột nhập vào hậu viện, ép Hằng Nga phải đưa ra thuốc bất tử. Hằng Nga biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp đã vội vàng mở hộp gương lược, lấy thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên trời. Nhưng do Hằng Nga còn nhớ chồng, nên chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần với nhân gian nhất rồi trở thành tiên.


Tối hôm đó, khi Hậu Nghệ về đến nhà, các thị nữ vừa khóc vừa kể lại câu chuyện xảy ra lúc sáng. Hậu Nghệ vừa lo vừa giận, đã rút kiếm tìm giết nghịch đồ, nhưng Bồng Mông đã trốn đi từ lâu. Hậu Nghệ nổi giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân kêu khóc. Trong lúc đau khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ lên trời đêm gọi tên vợ hiền. Khi đó, anh kinh ngạc phát hiện ra, trăng hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà còn có thêm một bóng người cử động trông giống Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến hậu hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó những món ăn và trái cây mà bình thường Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang nhớ đến mình.
Sau khi mọi người nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần lượt bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu được truyền đi trong dân gian. (nguồn: internet)
Ở thời đại toàn cầu hóa với văn minh khoa học kỹ thuật ‘nano’ hiện đại, câu chuyện này nếu chỉ hiểu với nghĩa đen thì quả thật là chuyện hoang tưởng của mấy bà già ăn trầu kể để dụ con nít. Vì ngày nay có mấy ai mà còn đi tin nỏ thần, rồi còn bảo bắn rụng tới chín ông mặt trời ; thì đúng là xạo sự, là huyễn thoại !!! Vậy thì tại sao từ ngàn năm xưa và qua bao thế hệ, bao nhiêu sách vở cứ đã ghi lại, biết bao bậc cha mẹ, thầy cô đã kể và dạy lại cho con nít chuyện này ? Như vậy có phải là người lớn cũng chỉ như con vẹt (con két) lập lại những điều tào lao vô nghĩa rồi còn đi đầu độc con nít ?
Đã đặt câu hỏi tức là đã có trả lời, nên tôi mời bạn thử tìm đi tìm với tôi câu trả lời cho vấn đề này. Vì như tác giả Nguyễn Việt Nho đã nói : "Đọc huyền thoại Việt là ghi nhận trực thị những gì chính huyền thoại chưng ra từ các huyền tự, huyền số và huyền đồ."; cho nên trong huyền thoại trên bạn với tôi hãy ghi nhận trực thị những huyền tự sau đây :
Hậu Nghệ : Hậu như "Hậu đế" có nghĩa là ông Trời ; còn Nghệ vốn là chữ Ngải, nên dùng thông với chữ Ngải có nghĩa là cai trị ; hay còn dùng để xưng tụng người tài đức. Nên khi ai làm việc gì một cách tài giỏi, tiếng Việt mình nói là "đạo nghệ", tức theo nguyên thủy có nghĩa là con người (Nhân) là một Tài (linh lực) như Trời và Đất, do đó mới có tiếng "nhân tài".
Côn Lôn : là tên núi ; còn là tên nước bộ tộc Tây Nhung đời cổ (Côn Di) ; nhưng bọn vô lại cũng bị gọi là "côn", do đó mới có tiếng "du côn".
Hằng Nga : chữ Hằng ở đây còn là tên quẻ trong Kinh Dịch, gồm quẻ Chấn ở trên, quẻ Tốn ở dưới, tượng trưng cho sự lâu dài, tức là Đạo Thường Hằng. Còn Nga có nghĩa là cao lớn hay xinh đẹp ; nên Hằng Nga ẩn nghĩa Đạo Trời cao cả tốt đẹp.
Bồng Mông : Bồng nghĩa là um tùm sum suê ; Mông có nghĩa hỗn loạn, che trùm ; ở đây ám chỉ dân du mục phương Bắc (Mông Cổ) là quân nghịch với quân tử ở phương Nam (Nam phương chi cường dã, quân tử cư chi) tức là Viêm tộc, Việt tộc.
Vương Mẫu : nghĩa là mẹ vua tức Mẹ Vũ Trụ (vạn vật chi mẫu), đó là Nguyên Lý Mẹ còn gọi là Lưỡng Nhất Tính, là cặp song trùng lưỡng hợp của hai sinh lực tương quan giao hội, và biến dịch không ngừng nên bất dịch gọi là Càn-Khôn, Trời-Đất, Âm-Dương, hay Nội-Ngoại, Không-Có, v.v…
Thuốc trường sinh bất tử : đó là Minh Triết Việt với nền tảng nhân sinh quan là "âm dương chi tú khí " với hai luồng Tâm-Sinh chính là hoạt lực siêu linh làm nên Tiết Điệu căn cơ của con người gọi là Tính Bản Nhiên, uyên nguyên tinh ròng không có một chút chi thuộc thụ động pha tạp vào. “Nhân chi sơ Tính bổn Thiện”, đó là Bản Tính vô biên trọn hảo vô cùng, như Kinh Dịch đã ghi : “Đại tại Kiền hồ ! Cương kiện, trung, chính, thuần, túy, tinh dã”.
Bây giờ bạn thử tìm và ghi nhận xem có huyền số hay không. Thưa trong huyền thoại này có hai huyền số :
1/ chín (ông mặt trời) : số 9 là tuỳ phụ (vòng thành: do số 5-4 mà thành) cũng gặp rất nhiều trong huyền sử (Cửu Lạc, Cửu Trù, Cửu Đỉnh, Cửu Thiên Huyền Nữ v.v…) (Kim- Định/Sứ Điệp Trống Đồng)
2/ Ba ngày sau : số 3 là Thái Cực với Lưỡng Nghi thành ra Tam Tài với Thiên, Địa, Nhân. Huyền số 3 cũng còn là ý nghĩa Hùng Vương tức nghĩa Nhân Chủ, vì hễ một khi hiểu được và sống triết lý Tam Tài, con người biết tự lực, tự cường, tức phải mạnh, phải tài đức để tự tài, tự tác,... để tự nối Trời và Đất lại thành Tâm của mình, để cho mình cũng là "thiên địa vũ trụ vạn vật Nhất Thế", tức là đạt Nhân chủ vậy. Vì nếu Trời là chủ, Đất là chủ thì Người cũng là chủ, hay nói cách khác nếu Trời là vua, Đất là vua thì Người cũng là vua. Vậy nên hễ khử trừ số 3 (triệt tam) như triết phương Tây thì không có Nhân chủ mà trái lại bị vật làm chủ, vì không đủ sức nối hai thái cực âm dương lại với nhau ; nên mới bị rơi vào duy tâm, duy vật hay duy nào đó thì cũng một chiều như nhau nên chỉ dẫn tới ứ trệ và bế tắc !
Nên sau khi đã hiểu được nghĩa những huyền tự và huyền số trong huyền thoại Hằng Nga thì không những câu chuyện Hằng Nga có đầy thú vị mà lại còn độc nhất vô nhị, vì nó đã chuyên chở vào lòng ta cả cái Đạo Thường Hằng chính là cái Đạo làm Người. Cho nên muốn thành Nhân, thành Tiên thì phải uống thuốc trường sinh bất tử, tức là phải đạt Minh Triết vậy. Còn nếu không sẽ như chú Cuội thì chỉ có biết bám víu vào báu vật là cây đa có sức chữa bá bệnh, nhưng đã bị trốc gốc và lơ lửng giữa trời (trên cung trăng), vì đã quên không biết mình (vong thân) chính là Đạo với Trời Đất, nên không còn là Nhân chủ vậy !
(Sau đây là một vài trích đoạn từ những tác phẩm của triết gia Kim-Định cắt nghĩa những huyền tự trong huyền thoại Hằng Nga)
“Và cái mỉm cười đó đã tỏ ra hiệu nghiệm bởi đã thắng không phải bằng tiêu diệt dị đoan, ai mà tiêu diệt được dị đoan? Nhưng bằng bắt dị đoan phải nằm dưới quyền minh triết, bằng đẩy óc Hà Vu về tận nơi phát xuất của nó là ngọn núi Côn Lôn, ở phía Thiểm Tây, Cam Túc. Các ngài đã kịp thời đưa tinh thần Giang tả chi ngạn hay là Động Đình hồ lên án ngữ làn sóng Hà Vu không cho tràn vào đất Lạc Việt." (Kim- Định / Việt Lý Tố Nguyên)
"Theo đó ngay từ thời trống đồng đã thấy có những truyện biểu lộ cuộc di tản thờ vầng nhật sang thờ trời, thí dụ truyện Hậu Nghệ bắn chín mặt trời còn để lại có một. Truyện đó biểu thị sự bỏ giai đoạn quá tôn thờ vào mặt nhật có hại cho con người như nơi người Phenicie và Astec. Hơn thế nữa đã vượt cả giai đoạn ma thuật hấp thụ sinh lực của mặt nhật để tiến đến giai đoạn thờ trời hay là bio-céleste. Tiếng Việt kêu vầng nhật bằng tên mặt trời là hàm ý đó. Mặt trời không còn là bá chủ nữa mà chỉ là thay mặt cho trời kiểu đại diện, nói gọn là mặt trời.
Suy đoán này y cứ trên sự kiện là văn hóa Đông Phương không cắt đứt với dĩ vãng, dầu có bước lên đợt trên cũng còn duy trì tinh hoa của giai đoạn trước. Theo đó khi đã vào giai đoạn thờ trời vầng nhật vẫn còn được duy trì như vị đại diện cho trời. Còn mặt trăng tuy mất chức ông nhưng được giữ chức trọng đại biểu thị luật lệ thường hằng của minh triết, nên được kêu là cô Hằng, Hằng Nga. Từ ông Trăng mà ra cô Hằng tuy có xuống chức nhưng cũng có lên kiểu cách mạng Việt ta thường đùa: “Được làm vua thua làm đại sứ”. (Kim- Định /Sứ Mạng Trống Đồng)
Tương tự huyền thoại Hằng Nga bạn có thể đọc lại trên internet nguyên văn huyền thoại thằng Cuội, hay lượt ý tóm tắt câu chuyện sau đây với ý nghĩa triết lý :
“Xưa kia Cuội là người làm củi, một hôm nhờ thoát nạn bị hổ ăn mà Cuội tìm ra được cây đa có sức chữa được bách bệnh, nên Cuội đánh đưa về trồng ở bên nhà, mỗi khi đi vắng thì dặn vợ: “Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Đông, cây dông lên trời”. Lần nào cũng dặn đi dặn lại vợ phát cáu “Ừ! Đã khỏe dặn bà thì bà cứ đái xem sao” quả nhiên cây liền lừng lững bay lên trời. Cuội vừa về kịp vội lấy rìu móc cây lại nhưng cây vẫn cứ bay cho tới cung trăng và Cuội phải ở lại trên đó.” (Văn học I.67)
"Cây đa chỉ nền minh triết nông nghiệp của tiên tổ đã bị khinh chê thì nó trở nên lờ lờ lơ lửng không còn khả năng chữa bách bệnh như xưa nữa. Người Việt đã hai lần đái vào cây như vậy. Lần đầu là khi nhận Hán Nho, lần sau là khi rước các thuyết ngọai lai dày xéo mảnh vườn văn hóa nước nhà. Và vì thế nền văn hóa này trở nên lơ lửng không có đủ khả năng đoàn tụ dân tộc thành một khối nữa." (Kim Định/ Cơ Cấu Việt Nho)

Ngoài ra huyền thoại thằng Cuội đã đi sâu vào lòng dân tộc vì nó cũng ẩn chứa một cách tế vi những ý tưởng của nền tảng Minh Triết Việt, nên phần sau đây tôi mời bạn ráng tiếp tục để thử đi tìm lại với tôi qua bài đồng dao sau đây, mà có lẽ bạn cũng như tôi đã thuộc nằm lòng từ thời thơ ấu.
Bóng trăng trắng ngà
Có cây đa to
Có thằng Cuội già
Ôm một mối mơ...
Nhưng trước khi nói chuyện về thằng Cuội, tôi xin được nhắc lại với bạn ý nghĩa Tết. Nói cách thông thường như mọi người hiểu Tết là Lễ, Tết là tiếng đọc trại từ chữ Tiết, "hay nói cách khác là Lễ hòa hợp Trời Đất nên cần Tiết nhịp như Đất cùng Trời, nhất là Trời. Tiết Trời thì như sáng với tối, Xuân với Hạ, tiết Đất thì như Đông với Nam, sông với núi "(Kim-Định). Tiết nhịp hòa đó là Trời 3 Đất 2, như câu: "tham thiên lưỡng địa", và từ đó lúc xưa cũng có điệu vũ gọi là :"lưỡng lưỡng tam tam".
Thiết tưởng cũng cần nên nhắc lại với bạn, cái nhân sinh và vũ trụ quan của tổ tiên Việt tộc: con Người với Trời Đất là một, còn gọi là Tam Tài trong Nhất Thể. Đó là chân lý và cũng là nền tảng của Đạo. Đạo đã được áp dụng vào Đời sống hằng ngày bằng lời nói (tiếng Việt), qua hành động, bằng lễ nghi với biết bao phong tục tập quán và luân thường đạo lý, đều quy về trung Tâm con người, mà ý nghĩa của nó phát sinh từ nguồn suối của Đạo, là Trời Đất, là Âm Dương, như câu: "nhất âm nhất dương chi vị Đạo" (H.T). Đó là Đạo Trời và cũng là Đạo Việt.
Cái cứu cánh hay sứ mệnh của con người ở đời này, là sống Đạo làm Người, tức là phải trở về với chính mình, tức là Thành Người, Thành Nhân. Mà muốn được Thành Nhân là phải biết vị trí của mình trong Trời Đất, để mới biết sống Hòa với tiết nhịp của Đất Trời. Cho nên tổ tiên mình mới nói "thuận tính mệnh chí lý" nghĩa là phải sống "thuận thiên" thì mới trường tồn. Mà sống thuận thiên là sống với nhịp một đêm một ngày, một ra một vào, một qua một lại,... như ông bà mình nói :"có qua có lại mới toại lòng nhau", hay "một đêm là nghĩa, một ngày là duyên". Đó là cái nhịp hai chiều, tương đồng tương giao, tương sinh tương khắc, tương ứng tương cầu, tương đối tương quan, với song trùng lưỡng hợp, để sinh sinh hóa hóa, trong lưỡng nghi nhất tính còn gọi là Nguyên lý Mẹ.
Vì vậy mà Tiết Xuân Thu là hai thời điểm của con người cảm thấy mình quy về (hòa) đúng nhất với tiết nhịp của Trời Đất qua vũ trụ vạn vật. Nên từ ý nghĩa đó mới có Tết Nguyên Đán và Tết Trung Thu. Dĩ nhiên nếu nói theo nền tảng văn hóa nông nghiệp của Việt tộc, thời tiết là yếu tố quan trọng nhất cho việc gieo gặt trồng tỉa, thì mùa Xuân là lúc phải gieo trồng và mùa Thu là lúc phải gặt hái. Trong tinh thần đó Tết Nguyên Đán cũng là lễ cầu xin cho một (mùa) năm mới được mưa thuận gió hòa, và Tết Trung Thu cũng là lễ tạ ơn cho hoa lợi mùa màng đã thâu nhập được.
Như mọi người Việt mình đều biết, cứ mỗi lần lễ lạc (lễ của dân Lạc Việt) là có lễ nghi (kiểu cách, nghi= trang sức với lông vũ), là có phần "tế tự" (hay tư tế, nghĩa là tự hiệp thông để "giao" với Trời thì mới hoan lạc : “giao lạc hồ thiên”), là ý nghĩa linh liêng để cho con người quy Tâm vào Đại Ngã, để sống cái Thiên mệnh nơi mình. Đó là sống với Nhân tính, tức là Tính Bản Nhiên của con người. Kế tiếp phần tế tự với hương đèn mâm quả, luôn luôn có phần "đại ẩm" (ăn uống nhậu nhẹt) là để "giao" với Đất, “giao thực hồ địa”. Vì vậy theo phong tục truyền thống văn hóa nông nghiệp của Việt tộc, dân tộc mình có những cái Tết theo Việt lịch tức Âm lịch còn tồn tại như sau :

Tết Nguyên Đán: ngày đầu năm (1/1).
Tết Thượng nguyên: ngày rằm tháng Giêng (15/1).
Tết Thanh minh: 60 ngày sau ngày Lập Xuân, tức là 60 ngày sau ngày mồng một tháng Chạp.
Tết Đoan Ngọ: ngày mồng 5 tháng Năm (5/5).
Tết Trung nguyên: ngày rằm tháng Bảy (15/7).
Tết Trung Thu: ngày rằm tháng Tám (15/8).
Tết Hạ nguyên: ngày rằm tháng Mười (15/10).
Ngày nay 3 cái tết lớn thường được dân gian làm lễ lạc với hoa quả bánh trái, đó là Tết Nguyên Đán, Tết Đoan Ngọ và Tết Trung Thu.
Nói đến Tết Trung Thu là mọi người từ bé (nếu đã hiểu biết) tới lớn đều nhớ tới thằng Cuội, mà qua khuôn khổ bài này tôi chỉ muốn đề cập ý nghĩa triết lý của nó. Đây là một bài đồng dao (bài ca của trẻ em), mà nội dung và ý nghĩa tương tự như bài đồng dao thằng Bờm. Tuy là bạn có lẽ đã thuộc nằm lòng cái bài đồng dao này, nhưng tôi xin dẫn ra đây để cho bạn dễ thấy:

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cỡi ngựa đi mời quan viên
Ông thời cầm bút cầm nghiên
Ông thời cầm tiền đi chuộc lá đa!

Đừng chỉ hiểu Cuội hay Bờm là những tên cúng cơm ở nhà quê ngày xưa, mà theo truyền thống, người dân quê ngày nay vẫn còn đặt những tên tương tự với nghĩa rất tầm thường đến độ có thể xấu xa, thí dụ như thằng Cu, con Hẻm hay thằng Xoài, con Ổi, thằng Đậu, con Bưởi, v.v... Vì theo hiểu biết nông cạn của người dân quê thường thất học, hay nếu có được nghe nói, cũng khó mà hiểu được cái định nghĩa con người, theo nhân sinh và vũ trụ quan của tổ tiên: "nhân giả kỳ thiên địa chi đức"; nên tưởng rằng con người là "của" Trời và "thuộc về" Trời, vì vậy mà sợ Trời kêu về bất cứ lúc nào, như người mình thường nói: "Trời kêu ai nấy dạ", hay còn hát: "khi Chúa thương gọi tôi về..." (nếu Chúa không gọi về thì chắc là Chúa ghét, hay chưa thương?). Cho nên nếu kêu tên thật (đẹp) của con mà mình đặt cho nó, nếu ông Trời nghe được Ổng thương nó và kêu nó về thì mình mất nó rồi, biết lấy ai đâu mà nhờ (?). Thôi thì kêu nó với cái tên cúng cơm vậy, nếu ông Trời có nghe Ổng sẽ tưởng là nó xấu và không thèm gọi nó về làm gì, thì mình sẽ còn nó để nuôi, khi lớn lên còn nhờ được vào việc nhà hay cày cấy ruộng đồng.

Nhưng phải hiểu sâu hơn với nghĩa mà người Việt mình tới nay vẫn nói là "hứa cuội", "nói cuội": đó là nghĩa "không" giữ lời hứa hay nói mà "không" có, và mình thường hiểu là nói xạo, nói dóc, nói láo và như vậy mà nghĩa "cuội" mới dính liền với nghĩa là "xấu". Nếu mình hiểu như vậy là hiểu theo người ta để cho giống người ta, mà quên rằng không có một ai giống ai trên đời này, cho dù là sinh đôi hay là có muốn được giải phẩu để giống đi nữa. Đó chính là chỗ mình không biết mình, nên không thể biết người, thì dĩ nhiên là làm sao biết được thằng "Cuội" hay thằng "Bờm" với nghĩa của nó?

Cũng nên biết rằng cơ cấu của thể thơ lục bát, bắt nguồn từ nền tảng của Đạo và được áp dụng vào Đời qua ca dao; mà thể thơ “lục” (3x2=6 chữ ) “bát” (4x2=8 chữ) là có từ số 3 là số Trời, là huyền số, (không phải như số 3 trong toán học với giá trị tuyệt đối) mà là số ẩn chứa nghĩa Tam Tài : "Thiên-Địa-Nhân" là Trời-Đất-Người. Nhưng Trời không là nghĩa ở trên cao tận mây xanh, và Đất không chỉ là nghĩa đất đai ruộng đồng ở dưới thấp trải rộng ra dưới chân trước mắt ; còn Người là những kẻ giống mình như ông đi qua bà đi lại... mà là nghĩa "linh tượng". Cũng như số 4 là số Đất mà cũng là huyền số qua "tứ tượng" với bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông và biểu tượng bằng : Long, Lân, Quy, Phụng.

Nên số 3 và 4 là Trời-Đất hay Âm-Dương, là Hai đối cực của Một thể vật hay thái sự, khi vận hành đúng tiết nhịp với nhau (tương giao) thành Hòa. Đó cũng là ý nghĩa con người chỉ thành Nhân khi Hòa đúng nhịp với tiết Trời và Đất, còn gọi là Chí-Trung-Hòa, nghĩa là Hòa tới chí cùng chí cực. (“Chí trung hòa, thiên địa vị yên vạn vật dục yên”)

Vì vậy đừng hiểu ca dao chỉ là những câu ca nói lên nhân tình thế thái, hay là những bài đồng dao cho con nít nghêu ngao để tập học thuộc lòng, mà còn là và nhất là ẩn ý nghĩa của Đạo làm người, được tiềm ẩn cách khéo léo, để cho ai muốn sống Đạo thì phải tâm tư, phải quy tâm, phải sống với nội tâm, mới có thể thấu hiểu Đạo. Vì Đạo là cái gì tế vi không thể thấy bằng "nhục ảnh" nghĩa là hình ảnh chỉ thấy bằng giác quan. Nên tổ tiên mới nói :"Mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi" (T.D.), tức là "không gì hiện rõ bằng cái ẩn tàng, không gì tỏ rõ bằng cái tế vi".

Vì vậy mà:
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa

ở đây phải hiểu "cuội" với nghĩa là "Không" (Có), là Vô Thường, là Chân Như. Đó là nền tảng chân lý của Đạo như "ngồi gốc cây đa", có nghĩa là “Tri chỉ, nhi hậu hữu Định”. Vì ngồi tức là đã “định vị” nghĩa là đã đặt đít mình trên cái gì vững chắc, và cây đa là cây cổ thụ có gốc to, rễ sâu, bóng mát. Mà cái gì cao cả to lớn làm cho mình mát mẻ, sung sướng, hạnh phúc ở đời này nếu không phải là Càn Khôn, là Đạo? Cho nên muốn Có Đạo, thì phải là thằng Cuội, nghĩa là phải làm cho tâm mình, lòng mình Trống Không thì mình mới Có tất cả Trời Đất Vũ Trụ. (Vũ trụ chi Tâm)
Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời

Bò trâu là tài sản, động sản của nhà nông, thuộc vật chất. Nên "bỏ trâu" là không để ý đến, không bám víu vào (vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã) để mới có thể hướng dương, nghĩa là quy về Trời mà cũng là quy về Cha, tức là quy tâm. Nên một khi đã định vị , định hướng, định thần với Trời (thuận thiên) thì tâm mới có thể tĩnh được. “Định, nhi hậu năng tĩnh”, và đó là nghĩa của "gọi cha ời ời".
Cha còn cắt cỏ trên trời

Cỏ nào mọc trên trời mà lại nói cắt cỏ trên trời ? Nhưng nói vậy là có ý ám chỉ ý nghĩa Trời hành : "thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức" trong quẻ Kiền (Càn), tức là Trời làm không ngừng, không nghỉ, vì là "còn cắt cỏ" và đó là ý nghĩa của Dịch. Nên "quân tử (con người) phải noi theo mà tự cường", nghĩa là để mà làm như Trời, tức là làm không biết mệt (cường), làm không vì cưỡng hành hay lợi hành, cũng không kể công, như "Ta đâu trâu đấy ai mà quản công". Vì vậy tâm phải tĩnh, thì tinh thần mới có thể an : “Tĩnh, nhi hậu năng an”, và đó mới là an hành để An vi.
Mẹ còn cỡi ngựa đi mời quan viên

Nếu Cha là Trời thì Mẹ là Đất (hay ngược lại, vì không thể hiểu Trời Đất với nghĩa hình ảnh cố định của lý trí). Nên hễ Trời làm thì Đất cũng thuận theo, đó là nghĩa nguyên thủy của câu : "Kiền giả kiện dã, Khôn giả thuận dã" (Hệ Từ). Ở Trời làm tượng (tại thiên thành tượng) thì ở Đất cũng thuận (theo) để Hòa Thành hình (tại địa thành hình), với tất cả vạn vật và quan viên. Nên nếu con người muốn sống thuận thiên, thì phải là chủ nhân ông để cỡi ngựa đi mời ; nghĩa là An rồi thì mới biết suy xét mọi sự, lý : “An, nhi hậu năng lự” , để mới biết sắp đặt vị trí trước sau của sự vật , tức là tham dự một cách hữu hiệu vào công trình sáng tạo của Trời Đất, như câu: "thiên nhân tương dữ". Đó là ý nghĩa của : "Mẹ còn cỡi ngựa đi mời quan viên" vậy.
Ông thời cầm bút cầm nghiên
Ông thời cầm tiền đi chuộc lá đa!

Còn "Ông" ở đây phải hiểu như nghĩa "phú Ông" trong bài đồng dao thằng Bờm, là con người với nghĩa "Có", có tất cả, tức là "có Thể" và "có Dụng", nghĩa là phải biết sống hòa với hai trạng thái mâu thuẩn của mọi sự vật hiện hữu. Nên một khi con người biết tham dự vào với Trời Đất, tức là biết Hành động cho "thuận thiên" để sinh sống, tức là biết tài tác với tài đức cho tài nghệ (dung hòa), như bên ngoài vẻ vời với bút nghiên mà bên trong là phải quy tâm như là cầm tiền để đi tìm lại Đạo, tìm lại Nhân Tính như là lá đa của cây đa đã bị trốc gốc bay mất (vong thân), để mới "Có Thể Thành Nhân". Đó chính là ẩn nghĩa của câu "cầm tiền đi chuộc lá đa" !

Tóm lại, ý nghĩa Đạo làm Người được tiềm ẩn trong bài đồng dao thằng Cuội mà có lẽ bạn chưa hề nghĩ thấu, nên mới gán cho nó cái nghĩa "xấu". Vì vậy, tôi mới nói ca dao không chỉ là gia tài văn hóa độc nhất vô nhị của tổ tiên, mà còn cả là một kho tàng vô tận, vì nó ẩn chứa cái Minh Triết, là cái Đạo Trời mà cũng là Đạo Việt. Nên bạn đừng "có tưởng" để mà coi thường khi hiểu cách tầm thường rồi khinh thường ca dao. Vì nếu bạn chê thằng "Cuội", thì làm sao bạn biết " Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời" để mà biết đâu là Tâm và Tính là gì, thì làm sao bạn có thể đạt cứu cánh của con người là thành Nhân hay thành Tiên được ?


Viết xong, ngày 12 tháng 9 năm 2010
(tức mồng 5 tháng 8 năm Canh Dần)
Việt Học.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét