Việt Nam quyết định xúc tiến kế hoạch xây 14 lò phản ứng hạt nhân
VOA news
Hình: VOA - Tấn Chương Việt Nam quyết định xúc tiến kế hoạch xây dựng 14 lò phản ứng hạt nhân trước năm 2030, mặc dù vụ khủng hoảng nhà máy điện hạt nhân Fukushima ở Nhật Bản tạo ra nhiều mối quan tâm về vấn đề an toàn hạt nhân.
Tường thuật hôm thứ Hai của tờ Vancouver Sun ở Canada trích lời ông Lê Đình Tiến, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ nói rằng “thông tin và đánh giá về những vụ nổ ở nhà máy Fukushima sẽ là cơ sở mà giới hữu trách Việt Nam dựa vào để phát triển các chương trình điện hạt nhân phù hợp.”
Tháng 10 năm 2010 Tập đoàn Điện lực Việt Nam do nhà nước làm chủ đã ký hợp đồng với công ty Rosatom của Nga để xây hai nhà máy điện hạt nhân ở tỉnh Ninh Thuận. Dự án trị giá 10 tỉ đô la này sẽ khởi công vào năm 2014 và theo kế hoạch sẽ bắt đầu hoạt động vào năm 2020.
Tháng 10 năm ngoái Việt Nam cũng đã ký kết với Nhật Bản một hợp đồng để xây hai nhà máy điện hạt nhân, cũng ở tỉnh Ninh Thuận. Trong khi đó, Nam Triều Tiên dự kiến sẽ trở thành nhà cung ứng thứ ba của Việt Nam trong lãnh vực điện hạt nhân.
Bài tường thuật của tờ Vancouver Sun cho biết Việt Nam thiếu rất nhiều chuyên viên để vận hành các nhà máy điện hạt nhân nên các hợp đồng với Nga và Nhật Bản đều có bao gồm những chương trình huấn luyện và đào tạo cho nhân viên người Việt Nam.
Từ khi hiệp định khung về hợp tác hạt nhân với Nhật Bản được ký kết năm 2008 đến nay, khoảng 500 chuyên viên Việt Nam đã được các công ty Nhật huấn luyện.
Kế hoạch phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam được nhiều người chú ý trong lúc Nam Triều Tiên chuẩn bị tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Hạt nhân lần thứ 2 tại Seoul vào hạ tuần tháng này.
Tin tức từ Seoul cho biết Việt Nam sẽ tham dự hội nghị này sau khi đã tham dự hộïi nghị lần thứ nhất tổ chức tại Hoa Kỳ cách nay gần 2 năm.
Nguồn: New Straits Time, Vancouver Sun
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Việt Nam quyết định xúc tiến kế hoạch xây dựng 14 lò phản ứng hạt nhân trước năm 2030, mặc dù vụ khủng hoảng nhà máy điện hạt nhân Fukushima ở Nhật Bản tạo ra nhiều mối quan tâm về vấn đề an toàn hạt nhân.
Tường thuật hôm thứ Hai của tờ Vancouver Sun ở Canada trích lời ông Lê Đình Tiến, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ nói rằng “thông tin và đánh giá về những vụ nổ ở nhà máy Fukushima sẽ là cơ sở mà giới hữu trách Việt Nam dựa vào để phát triển các chương trình điện hạt nhân phù hợp.”
Tháng 10 năm 2010 Tập đoàn Điện lực Việt Nam do nhà nước làm chủ đã ký hợp đồng với công ty Rosatom của Nga để xây hai nhà máy điện hạt nhân ở tỉnh Ninh Thuận. Dự án trị giá 10 tỉ đô la này sẽ khởi công vào năm 2014 và theo kế hoạch sẽ bắt đầu hoạt động vào năm 2020.
Tháng 10 năm ngoái Việt Nam cũng đã ký kết với Nhật Bản một hợp đồng để xây hai nhà máy điện hạt nhân, cũng ở tỉnh Ninh Thuận. Trong khi đó, Nam Triều Tiên dự kiến sẽ trở thành nhà cung ứng thứ ba của Việt Nam trong lãnh vực điện hạt nhân.
Bài tường thuật của tờ Vancouver Sun cho biết Việt Nam thiếu rất nhiều chuyên viên để vận hành các nhà máy điện hạt nhân nên các hợp đồng với Nga và Nhật Bản đều có bao gồm những chương trình huấn luyện và đào tạo cho nhân viên người Việt Nam.
Từ khi hiệp định khung về hợp tác hạt nhân với Nhật Bản được ký kết năm 2008 đến nay, khoảng 500 chuyên viên Việt Nam đã được các công ty Nhật huấn luyện.
Kế hoạch phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam được nhiều người chú ý trong lúc Nam Triều Tiên chuẩn bị tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Hạt nhân lần thứ 2 tại Seoul vào hạ tuần tháng này.
Tin tức từ Seoul cho biết Việt Nam sẽ tham dự hội nghị này sau khi đã tham dự hộïi nghị lần thứ nhất tổ chức tại Hoa Kỳ cách nay gần 2 năm.
Nguồn: New Straits Time, Vancouver Sun
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Dự án hạt nhân Việt Nam quá tham vọng?
Việt Nam đang có một chương trình điện hạt nhân "tham vọng vào loại bậc nhất trên thế giới" với giấc mơ về hạt nhân đang "đâm hoa đua nở" trong lúc đang có lo ngại về chúng, theo tờ báo Mỹ The Bấm New York Times, 01/3/2012.
Trong khi Việt Nam đang cử ngày một đông các kỹ thuật viên trẻ tuổi ra nước ngoài để "đào tạo" vận hành loại công nghệ năng lượng có độ rủi ro đầy tranh cãi, thì theo các chuyên gia nói với New York Times, nước này có rất nhiều vấn đề như đảm bảo an toàn thấp kém, tham nhũng tràn lan và thiếu minh bạch.
"Thời gian biểu quá tham vọng có thể dẫn tới quản lý yếu kém, cũng như mối quan hệ thông đồng giữa các nhà quản lý và khai thác có thể góp phần vào thảm họa như tại nhà máy hạt nhân Fukushima ở Nhật Bản năm ngoái," một số chuyên gia trong nước và quốc tế nói với New York Times về trường hợp của Việt Nam.
Một số quốc gia từng để xảy ra thảm họa hạt nhân nằm trong số có các công ty đang "ra sức" bán công nghệ năng lượng này cho Việt Nam, trong đó có Nga và Nhật Bản.
Giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện phó Viện Năng lượng Quốc gia được The New York Times trích lời nói:
"Tôi không hiểu vì sao Nhật Bản đang cố gắng xuất khẩu tới các nước kém phát triển một thứ gì đó mà trong nước họ đã chối bỏ."
Bài của Norimitsu Onishi trên tờ báo Mỹ cho hay sau thảm họa Fukushima mà Nhật Bản tới đây sẽ kỷ niệm một năm, Tokyo đã hủy bỏ các kế hoạch xây dựng thêm 14 lò phản ứng vào năm 2030.
Trước thảm họa, Nhật Bản có 54 lò phản ứng, nhưng hiện nay phần lớn đã dừng hoạt động, ngoại trừ hai lò còn được tạm giữ lại.
"Vẫn chưa quá muộn"
Trao đổi với BBC hôm 02/3/2012, Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn chuyên về năng lượng nguyên tử ở Pháp đồng ý với tờ New York Times.
Người từng là cố vấn chiến lược của Tập đoàn Điện tử Pháp Electricité de France, nói:
"Chương trình của Việt Nam quá tham vọng, không những nó nguy hiểm mà nó còn tốn tiền cho dân và không có lợi gì hết,"
"Bây giờ không có gì là muộn. Muốn dừng thì dừng ngay, chứ có cái gì đâu. Bao giờ đã xây rồi, lúc đó anh tháo gỡ một nhà máy đã chạy, anh sẽ tốn kém hàng chục tỷ (đô-la), anh tốn ba, bốn, năm chục năm mới tháo gỡ xong.
"Hiện chưa làm gì hết, năm 2014 mới bắt đầu xây, mới chỉ thỏa thuận trên nguyên tắc thôi, chứ đã ký kết mua bán xong gì đâu mà không cho rút lui. Bây giờ vẫn còn thì giờ để rút lui và tôi xin cam đoan là Chính phủ thế nào cũng rút lui. Không thể nào đi tiếp được, bởi vì đi tiếp thì nó sẽ là Fukushima đấy."
"Bây giờ không có gì là muộn. Muốn dừng thì dừng ngay, chứ có cái gì đâu. Bao giờ đã xây rồi, lúc đó tháo gỡ sẽ tốn kém hàng chục tỷ đô la"
Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn
Ông Nhẫn tin rằng các công ty cung cấp công nghệ điện hạt nhân đang cố bán hàng cho Việt Nam vì họ đã "chót đầu tư" và nay lại bị chính trong nước của họ không cho lắp đặt, vận hành, nên tìm cách bán thứ công nghệ mà ông cho là "đã lỗi thời" và không có tương lai sang các quốc gia kém phát triển "chỉ vì lợi nhuận:"
"Họ làm là để họ bán. Nhật không thể nào xây cất ở trong nước của được. Nga thì ẩu, nước của họ lớn, rộng, nếu họ làm, thì họ sẽ bị một Chernobyl khác... Mỹ ba chục năm nay họ không xây cất nữa, họ chỉ làm để bán. Vì đó là vấn đề thị trường quốc tế, họ đã đầu tư rồi thì họ muốn bán.
"Nay mình mua thì như là mua đồ tồn kho vậy. Hàn Quốc cũng muốn thương mại. Vấn đề là các công ty của họ cũng muốn làm lợi, họ đã lỡ đầu tư kỹ nghệ của họ. Mỗi nước chế tạo máy đó, họ đã bỏ ra hàng trăm tỷ đô la. Chỉ có nước Đức đáng phục là họ đã bỏ ra 300-400 tỷ đô la rồi, mà họ cũng vẫn rút lui."
Ninh Thuận im lặng?
Bình luận về chuyện vì sao người dân tỉnh Ninh Thuận, hoặc các đại biểu tỉnh này, có vẻ khá "im lặng," chưa cho thấy tiếng nói đủ mạnh để chất vấn Quốc hội, Chính phủ về độ rủi ro và hậu quả nếu xảy ra sự cố điện nguyên tử, ông Nhẫn nói:
"Bên mình có dân chủ đâu. Đúng ra là phải làm trưng cầu dân ý.
"Xin nhớ là bây giờ ở Pháp, Anh, Đức, Mỹ, tất cả các nước có công nghệ mạnh, không thể nào tìm được một miếng đất để xây lò mới.
"Vì vậy mà đối với những lò đã xây 30 chục năm, nay họ đòi tăng thời gian vận hành là 40, 50 chay 60 năm, bởi vì họ không tìm ra đất,
"Không có làng xã nào họ bằng lòng cho thuê đất để làm nhà máy điện hạt nhân.
"Vì vậy mà họ cứ giữ mấy lò cũ, kéo dài thời gian, rất nguy hiểm và tốn kém," Giáo sư Nhẫn nói với bbcvietnamese.com.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Không thể để NinhThuận trở thành Fukushima
Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn
Ông Nguyễn khắc Nhẫn, Nguyên Cố vấn Nha kinh tế, dự báo, chiến lược EDF Paris, GS Trường Đại học Bách khoa Grenoble, GS Viện kinh tế, chính sách năng lượng Grenoble trả lời phỏng vấn RFA về chương trình xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận.
Bài học cay đắng của Fukushima và Tchernobyl
RFA: Xin Giáo sư cho biết tại sao có người cho rằng thảm họa Fukushima là do thiên tai động đất và sóng thần chứ không phải là do công nghệ tinh xảo của điện hạt nhân. Tchernobyl và Fukushima có khác nhau lắm không ?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn: Cách đây đúng một năm trời, ngày 11-3-2011, ở Nhật Bản, trận động đất 8.9° Richter và sóng thần khủng khiếp tiếp theo đã làm 16000 người thiệt mạng, 6000 người bị thương, 7500 người mất tích. Cả thảy trên 112000 dân phải di tản xa nhà máy Fukushima 30 km.
Theo Viện bảo vệ phóng xạ và an toàn hạt nhân Pháp (IRSN), chúng ta chứng kiến một Tchernobyl cục bộ, vùng bị ảnh hưởng nhỏ hơn, nhưng sự ô nhiễm phóng xạ thì không khác nhau bao nhiêu (iode 131 và césium 137 thải ra bằng 42% của Tchernobyl ). Theo Norwegian Institute for Air Research, Xénon 133 thoát ra ngay sau khi động đất, trước sóng thần.
70% tâm lò số 1 bị nóng chảy ( 2300° ) 3giờ sau động đất, 33% tâm lò số 2 bị nóng chảy 77 giờ sau động đất, và một phần tâm lò số 3 bị nóng chảy 40 giờ sau động đất.
Trái với Tchernobyl mà vụ nổ rất lớn của lò phản ứng số 4 RBMK 1000 MW, đang hoạt động, đã làm tung lên cao nhiều cây số những hạt bụi, tạo nên đám mây phóng xạ, thì ở Fukushima, vì các lò phản ứng đã ngừng hoạt động, phóng xạ thoát ra nằm ở độ cao thấp hơn. Tuy nhiên, ở Nhật Bản, người ta có cảm tưởng đứng trước một thảm cảnh rùng rợn hơn vì khó mà tin rằng có thể quản lý được tình trạng hỗn loạn của 6 lò phản ứng, tổng cộng 4680 MW, của nhà máy Fukushima Daiichi 1, mà ở đây các vụ nổ cứ nối tiếp nhau.
Một ủy ban độc lập điều tra Nhật Bản vừa tiết lộ rằng chính phủ đã dự trù những kế họach đại quy mô để di tản Tokyo ( 13 triệu dân, chưa kể 22 triệu vùng lân cận ) vài ngày sau khi thảm họa bắt đầu, vì chưa biết có thể khống chế đựợc tai biến Fukushima không. Ủy ban cũng cho hay là nếu Thủ tướng Naoto Kan lúc bấy giờ không ra lệnh cho tâp đoàn điện lực TEPCO và giám đốc nhà máy phải giữ nguyên nhân viên tại chỗ để tiếp tục làm lạnh các lò thì hậu quả sẽ thảm khốc hơn nhiều.
Đất và nước biển của một khu vực rộng lớn đã bị phóng xạ ô nhiễm trầm trọng. 2 triệu dân trong tỉnh Fukushima sẽ được các cơ sở y tế kiểm tra thường xuyên, 360000 cháu bé sẽ được theo dõi cho đến tuổi 20 vì ung thư tuyến giáp chỉ phát hiện sau 5 năm. Hiện nay, nhiều em bé ở cách xa Fukushima 220 km mà cũng bị ô nhiễm.
Dần dần, người ta phát hiện ra rằng TEPCO đã nhiều lần nói dối, cũng như các nhà chức trách Nhật Bản, đặc biệt là cơ quan an toàn hạt nhân (NISA) không độc lập, bị quá tải bởi các sự kiện xảy ra. Phải nhìn nhận là việc xử lý biến cố thiếu phối hợp vì phân chia trách nhiệm không minh bạch và mức độ tin tưởng ở công nghệ quá cao. Vì sự khiếm khuyết của một hệ thống thiết kế chưa hoàn bị nên khó đối phó được với các tình huống đặc biệt phức tạp. Sự thiếu liên lạc mật thiết với cơ quan AIEA ở Vienne (mà vai trò cần phải được xem xét và xác định chu đáo lại) càng làm nghiêm trọng thêm tình hình.
Từ trước đến nay, các nhà lãnh đạo và các chuyên gia trong lĩnh vực hạt nhân luôn khẳng định là các lò phản ứng phương Tây hết sức an toàn và một Tchernobyl thứ hai không thể nào tái diễn được, nhờ ở sự hiện diện của vỏ bảo vệ ( enceinte de confinement) trong các lò PWR hay BWR. Tiếc thay bài học Tchernobyl không được cân nhắc và nghiên cứu tỉ mỉ.
Không thể nói rằng Tchernobyl xẩy ra là vì công nghệ và Fukushima vì thiên tai. Sự thật, lỗi của con người trong hai thảm họa này rất lớn về thiết kế cũng như về khai thác.
Chúng ta khó hiểu tại sao, sau Hiroshima và Nagasaki đã gây ra hàng trăm ngàn nạn nhân nguyên tử, các kĩ sư Nhật Bản lại phiêu lưu xây dựng các nhà máy điện hạt nhân trên một lãnh thổ nhỏ hẹp mà nguy cơ động đất và sóng thần hết sức cao. Xin phép nhắc lại đây 2 tai biến chính : 1-9-1923, một trận động đất mạnh 7.9° Richter, theo sau bởi sóng thần, đã tàn phá Tokyo và vùng Kanto, làm ít nhất 150 000 người chết ; 17-1- 1995, thành phố Kobe rung chuyển bởi trận động đất mạnh 7.2° Richer, gây ra 6500 nạn nhân.
Bất chấp nguy hiểm thường trực trên đầu chúng ta, các lobby hạt nhân vẫn bình thản đặt mục tiêu tăng gấp đôi số lò phản ứng từ nay đến 2035 ! Fukushima đã ngăn chặn tham vọng này.
Xin mời những ai có trách nhiêm trong lĩnh vực hạt nhân bỏ chút thì giờ, chịu khó đọc tác phẩm của nhà báo Wladimir Tchertkoff ( Le crime de Tchernobyl, le goulag nucléaire ) xuất bản năm 2006. Làm sao không khỏi xúc động khi khám phá ra rằng : 8 triệu người đang sống ở vùng bị nhiễm độc kéo dài hàng trăm năm, nông dân nghèo phải nuốt hằng ngày césium 137 chứa trong thực phẩm. Những bà mẹ vô tình gây nhiễm độc cho con cháu. Những em bé này sẽ lâm nhiều bệnh tật vì chúng được nuôi dưỡng bằng các chất phóng xạ suốt sáng, trưa, chiều tối ! Thường dân vô tội vẫn tiếp tục chết vì ung thư tuyến giáp (nhất là trẻ em nhỏ tuổi), ung thư vú, tiểu đường, bạch cầu…Những lobby hạt nhân đã tìm mọi cách để bóp nghẹt tin tức về tai biến Tchernobyl (một thảm họa mở màn cho sự sụp đổ của Liên xô) và che lấp tiếng la hét xót xa đau khổ của những kẻ vô tội còn sống ở trong các vùng bị nhiễm.
Theo nhà xã hội học Frédérick Lemarchand, phụ trách Cực rủi ro của đại học Caen ( báo le Monde ngày 19-4-2011 ) Tchernobyl và Fukushima mở đầu cho loại thảm họa kiểu mới, mà loài người chưa bao giờ thử nghiệm, vì nó triển khai trong một thời gian hết sức lâu dài, đồng thời tăng cường với đời sống sinh vật mà nó hủy diệt. Nó quyết định đời sống sinh vật, xã hội và tâm lý của bao nhiêu thế hệ con người nay chưa sinh nở mà sự tồn tại trong tương lai đã bị hạt nhân đô hộ.
Chúng ta còn nhớ lời tuyên bố vô trách nhiệm và khiêu khích của cựu tổng giám đốc AIEA : nhân loại có thể chịu đựng được một Tchernobyl mỗi năm !
Ở Ukraine, những liquidateurs, thương binh, nhiều nhà khoa học và bác sĩ tiếp tục đấu tranh trong sự tuyệt vọng để chống lại sự lãng quên. Theo Larisa Yanovych, ở bệnh viện Kiev, phụ trách theo dõi y tế, khoảng hai triệu người là nạn nhân của thảm họa Tchernobyl. Hội nghị của các nước tài trợ khai mạc ở Kiev ngày 19-04-2011, chủ yếu quan tâm đến nguồn tài chính cho việc xây dựng nhà bao bọc ( sarcophage ) mà chi phí hiện nay đã lên quá 1,5 tỉ euros. Sarcophage rất đồ sộ , nặng 30 000 tấn, cao 110 m, dài 164 m và rộng 257 m, sẽ hoàn thành vào năm 2015. Ngân hàng châu Âu dành cho việc tái xây dựng và phát triển ( BERD ) quản lý nguồn vốn này. Nhà bao bọc thứ hai này trên lý thuyết có thể tồn tại được một thế kỷ, nhà bao bọc thứ nhất xây dựng vội vàng đã bị hư hỏng nhiều nơi. Như thế cứ 100 năm con cháu ta phải tiếp tục xây một sarcophage khác !
Tchernobyl xảy ra tại một quốc gia toàn trị bên bờ phá sản và một nền công nghiệp đang hấp hối, trong khi Fukushima đột ngột giáng xuống một nước có robot vô cùng tinh vi. Vết châm kim nhắc nhủ mối hiểm nguy ác nghiệt của hạt nhân sau 25 năm liệu có đủ hay còn phải cần nhiều Tchernobyl khác, mà ta có thể tiên đoán được, mới xóa bỏ sự điên cuồng của loài người ? Fukushima không phải là một tai biến mới bắt đầu mà là một Tchernobyl đang tiếp diễn. Giải thưởng Nobel kinh tế Ấn độ, Amartya Sen, đã tuyên bố rằng hạt nhân không phải là lời giải của bài tóan năng lượng thế giới.
Với nhà báo nổi tiếng Kamata Sathóhi, Kenzaburô Ôé, Nobel văn chương của Nhật Bản, đã tổ chức phong trào ( Sayonora Genpatsu – Từ giã hạt nhân ) chống điện hạt nhân và đã đi biểu tình phản đối ở Tokyo.
Nhà văn Nhật Bản Yoko Tawada nghi rằng sở dĩ nước ông làm điện hạt nhân là vì có ẩn ý muốn làm bom nguyên tử khi cần thiết. Điều này cũng dễ hiểu thôi vì một lò PWR 1000 MW, sau mỗi năm họat động có thể cho 200 kilo tương đương Plutonium ( Pu ). Phần đông các nước có bom nguyên tử đều bắt đầu với điện hạt nhân.
Đứng về phương diện trí tuệ, có thể làm an tâm nhưng hoàn toàn vô trách nhiệm nếu cứ đổ thừa cho thiên tai : động đất và sóng thần. Nhà xã hội học người Anh, Anthony Giddens, khuyên chúng ta nên chia ra làm hai loại nguy cơ : nguy cơ bên ngoài liên quan đến thiên nhiên (lũ lụt, động đất, bão tố…) mà tổ tiên chúng ta đã thừa biết và nguy cơ do chúng ta tạo ra, liên quan đến các hoạt động của con người (ô nhiễm công nghiệp, thay đổi khí hậu, thảm họa hạt nhân…). Chúng ta không có kinh nghiệm về các loại nguy cơ thứ hai này vì chúng ta đang tạo ra nó và chúng ta đơn giản hóa đến mức tối thiểu bằng cách cho là do thiên nhiên. Đó là lí do tại sao chúng ta không thể đánh giá được mức độ khủng khiếp của nó và đối mặt với nó được. Sự thiếu năng lực, tham nhũng, tính kiêu ngạo, chưa kể sự dối trá, góp phần nhân rộng và làm tăng các mối nguy cơ này trên thế giới.
Không có lò phản ứng nào an toàn được
RFA : Nga và Nhật bản đã tuyên bố với Việt Nam là lò của họ sắp bán cho ta là được bảo đảm an toàn. Giáo sư nghĩ thế nào ?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn: Không ai có thể đảm bảo an toàn cho các lò thế hệ 3, 3+ (hay thế hệ 4 sau này). Sau Fukushima, dân chúng Nhật Bản không còn tin tưởng ở các lò điện hạt nhân sản xuất trong nước của họ. Thế mà thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda, đã cả gan cam kết sẽ cung cấp cho Việt Nam một công nghệ bảo đảm mức an toàn hạt nhân cao nhất thế giới ! Nhật Bản đã hủy bỏ chương trình xây cất thêm 14 lò mà lại đem bán cho ta một cách thiếu lương tâm ! Biết đâu là máy móc dụng cụ tồn kho ?
Tháng 6 vừa qua, một báo cáo đã vạch trần những thiếu sót quan trọng về kỹ thuật cũng như về cách khai thác 32 lò của Nga. Tuy nhiên, ngày 9-2-2012 tại Hà nội, Serge A. Boyarkin, phó tổng giám đốc tập đoàn Rosatom Nga, không ngần ngại tuyên bố rằng nhà máy Ninh Thuận sẽ bảo đảm an toàn, chống được động đất 9° Richter!
Vì cớ gì ta lại tiếp tục nghe luận điệu tuyên truyền dối trá của các công ty Nga và Nhật Bản để cho hai nước này xây dựng những lò đầu tiên ở Ninh Thuận ? André Lacoste, chủ tịch cơ quan an toàn Pháp (Autorité de Sureté Nucléaire) cũng đã nhiều lần lớn tiếng : không ai có thể quả quyết rằng ở Pháp sẽ không có tai biến hạt nhân. Cũng vì lẽ ấy mà EDF sẽ phải xuất ra cấp tốc 10 tỷ euros để củng cố tất cả những nhà máy điện hạt nhân. Vừa rồi Greenpeace đã bố trí, cho vài người vào trong khu vực nhà máy điện hạt nhân Nogent sur Seine, trong lúc hai nhân viên khác đã ẩn núp được trong nhà máy Cruas, suốt nhiều tiếng đồng hồ! Greenpeace muốn chứng minh rằng quân khủng bố cũng có thể đột nhập dễ dàng để phá hoại mặc dù có sự canh gác thường trực của một đội lính ở mỗi nhà máy. Ngoài ra, quân đội cũng chuẩn bị sẵn sàng hỏa tiễn để đề phòng máy bay oanh tạc.
Việc cơ quan an toàn Tây Âu (Wenra), trong đó Pháp dẫn đầu, không muốn kiểm tra sức chịu đựng (Stress test) các nhà máy điện hạt nhân trong các trường hợp như bị máy bay, quân khủng bố, tấn công tin học hay lỗi con người... như Đức và Áo đề nghị, chứng tỏ sự thiếu tin tưởng ở mức độ an toàn.
Nước ta chưa hấp thụ được văn hóa an toàn, chưa có đủ chuyên gia, chưa có hệ thống pháp lý khắc chế, chưa có hậu thuẫn khoa học kỹ thuật để quản lý một loạt nhiều lò phản ứng.
Trên thế giới, chỉ trong vòng 32 năm thôi, từ 1979 đến nay mà đã có 5 lò hạt nhân bị nóng chảy (fusion) : 1 ở Three Mile Island (Mỹ), 1 ở Tchernobyl (Liên Xô), 3 ở Fukushima (Nhật Bản). Gần đây có chuyên gia đã kết luận rằng thảm họa Fukushima là do động đất gây ra (làm cho những ống nước gãy nứt) trước khi sóng thần ồ ạt tàn phá nhà máy, làm hỏng hệ thống làm lạnh và máy Diesel.
Fukushima đã cảnh cáo một cách long trời lở đất với bao hình ảnh đau thương như thế mà ta vẫn chưa tỉnh giấc mơ hay sao. Ta chờ đợi một Tchernobyl hay một Fukushima khác rùng rợn hơn mới nhất trí rằng hai chữ an toàn của Nga và Nhật Bản là dối trá? Ta nên đặt câu hỏi, tại sao nước Mỹ, có đủ khả năng và điều kiện, thận trọng nhất nhì về khâu an toàn, lại không xây cất thêm một lò hạt nhân nào khác, từ khi gặp sự cố Three Mile Island đã hơn 30 năm nay? Nhật Bản với một diện tích đất nhỏ hẹp như ta, đã bị tàn phá bởi hai quả bom ở Hiroshima và Nagasaki, thế mà cả gan xây dựng 54 lò ven bờ biển, không sợ động đất và sóng thần! Đó là chiến lược liều mạng, tự hủy diệt, mà ta không nên bắt chước.
Lúc xảy ra chiến tranh, có nhà máy điện hạt nhân trong nước có thể xem như chứa bom nguyên tử trong mỗi nhà, tuy lò không nổ như bom. Làm sao có an toàn được? Phóng xạ, vô biên giới, sẽ bao trùm lãnh thổ trong giây phút, nếu địch tấn công Ninh Thuận., hay có sự sai lầm của nhân viên chưa đủ trình độ. Về địa lý, thời tiết ở Việt Nam vô thường, mỗi năm đều có bão tố, lũ lụt lớn, phá hại mùa màng và gây tang thương cho đồng bào. Bom, mìn, chất độc dioxin vẫn tiếp tục cướp tính mạng của bao thường dân vô tội. Ta đã quên nỗi đau khổ của đồng bào đã chịu đựng bao nhiêu năm chiến tranh hay sao ?
Chơi với lửa có ngày cũng phỏng tay. Theo Bernad Laponche, lò phản ứng hạt nhân chỉ là một nồi nấu nước sôi, vô cùng phức tạp, nguy hiểm và đắt tiền! Xác suất xẩy ra một thảm họa ổ Pháp hay ở Âu châu không phải là nhỏ.
Bài toán kinh tế rất phức tạp và kinh phí khổng lồ
RFA : Về bài toán kinh tế để tính giá điện hạt nhân, Giáo sư có thể cho biết những kinh phí cần thiết ở mỗi giai đoạn không ? Khâu nào tốn kém nhất ?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn: Để các cơ quan trách nhiệm Việt Nam có một ý niệm về bài toán kinh tế rất phức tạp và kinh phí khổng lồ cần thiết, tôi xin phép vắn tắt trình bày phương pháp và mạch lạc giữa các khâu với những con số của tập đoàn EDF vì tôi đã làm việc ở công ty này suốt 30 năm trời.
Các nhà máy điện hạt nhân, từ thiết kế đến vận hành, từ khai thác đến bảo dưỡng, cần một công nghệ cực kì tinh xảo và tốn kém.
Chi phí đầu tư, theo giá cố định tại một thời điểm quy ước, bao gồm chi phí trực tiếp từ 75% đến 80% (xây dựng, thiết bị, lắp ráp, thử nghiệm…) và chi phí gián tiếp từ 20% đến 25% (đất đai, chủ thầu, hành chính…). Sự giảm chi phí này chỉ có thể đạt được nếu xây dựng lớn, hàng loạt hoặc xây nhiều nhà máy tại cùng một nơi. Cần phải tính đến lãi suất phát sinh lớn ( intérêts intercalaires ) bởi thời gian xây dựng nhà máy điện hạt nhân (ít nhất từ 5 đến 7 năm) tương đối dài hơn nhà máy chạy than (3 đến 4 năm) hay khí (2 đến 3 năm). Chi phí đầu tư tổng cộng còn phải tính đến chi phí tháo gỡ hay phá hủy tính vào thời điểm đưa vào vận hành ( giá trị thấp vì khoảng cách thời gian lớn ).
Chi phí của chu trình nhiên liệu ( cycle du combustible ) phải tính đến, ngoài thời gian trong lò phản ứng, phần trước (lấy uranium dưới dạng U3O8, biến đổi UF4 và UF6 thành uranium làm giàu, làm giàu uranium, sản xuất các thanh nhiên liệu) và phần sau (vận chuyển các bộ lắp ghép phóng xạ, tái chế nhiên liệu, vận chuyển và lưu trữ chất thải phóng xạ, tài khoản tái chế- crédíts du retraitement ). So với khí, phần nhiên liệu hạt nhân trong mỗi kWh điện thấp hơn nhiều, 20 - 25% thay vì 70%.
Chi phí khai thác và bảo dưỡng, chiếm từ 15% đến 25% trong chi phí một kWh điện hạt nhân, bao gồm chi phí vận hành, nhân công, bảo trì, hành chính, thuế, bảo hiểm, bảo vệ bức xạ, xử lí chất thải.
Cũng cần tính đến chi phí bên ngoài ( externalités ) như CO2, tai nạn, thải chất phóng xạ, rất khó đánh giá. Ngoài chi phí môi trường, người ta còn phân biệt chi phí bên ngoài liên quan đến độc lập năng lượng, kinh tế hoặc chính trị...
Chi phí tháo gỡ một nhà máy điện hạt nhân trên lý thuyết chiếm 25% đến 40% chi phí đầu tư. Trên thực tế, chi phí này có thể lên tới và thậm chí vượt quá 100%. Đó là trường hợp nhà máy nước nặng (70 MW) Brennilis của EDF đang được phá hủy từ 20 năm nay mà vẫn chưa xong. Chi phí dành cho nhà máy này đă lên quá 500% con số dư trù ! Về kinh phí dành cho công trình tháo gỡ, EDF đưa ra con số tạm thời là 300 triệu euros cho mỗi lò. Ở Đức con số lên đến 852 triệu euros. Lẽ cố nhiên, tháo gỡ một lò bị hư hỏng nặng như Fukushima cần nhiều tiền hơn, khoảng 2,7 tỉ euros ( cao hơn giá đầu tư xây cất ).
Theo báo cáo ngày 31-1-2012 của Tòa tài khoản ( Cour des Comptes ) Pháp, tổng số kinh phí đầu tư trong lĩnh vực hạt nhân dân sự Pháp từ 1957 đến 2010 lên đến 228 tỉ euros, trong đó những nhà máy điện hạt nhân đang hoạt động chiếm 96 tỉ, chu trình nhiên liệu 40 tỉ, khâu nghiên cứu 55 tỉ ( gồm lò ASTRID - Advanced Sodium Technological Reactor for Industrial Demonstration ).
Trung bình mỗi MW đặt trị giá là 1,5 triệu euros ( tức 2000 đôla mỗi kW ) so với 3,7 triệu euros mỗi MW đặt của lò EPR . Như thế có nghĩa là năng lượng gió trên đất (1,45 triệu euros mỗi MW ) ở Pháp đã bắt đầu cạnh tranh được với điện hạt nhân.
Kinh phí khai thác tổng quát năm 2010 ( gồm nhiên liệu uranium, nhân viên, thuế má...) lên đến 8,95 tỉ euros ( tức là 22 euros mỗi MWh ) với một sản lượng điện hạt nhân là 407, 9 TWh.
Giá kinh tế ( coût courant économique ) mỗi MWh điện hạt nhân là 49,50 euros với giả thuyết một tỉ suất hiện tại hóa a ( taux d'actualísation) là 5% và tỉ số lạm phát 2% .Trong tương lai gần đây giá điện EDF sẽ tăng lên ít nhất là từ 10% đến 15%. Dùng giá kinh tế dễ so sánh các dạng năng lượng khác nhau dễ hơn là với giá kế toán (coût comptable ).
Vì giá sản xuất của lò EPR sẽ cao hơn nhìều: từ 70 đến 90 euros mỗi MWh nên Pháp sẽ không thay thế các lò đang họat động bởi các lò EPR như đã dự tính. Mà dù có muốn cũng khó thực hiện được vì không thể nào sản xuất kịp.
Riêng năm 2010 nhà nước phải bỏ ra 644 triệu euros để đài thọ các khâu nghiên cứu ( 414 triệu ) an toàn và an ninh ( 230 triệu ). Viện bảo vệ bức xạ và an toàn hạt nhân gồm 1768 nhân viên, cơ quan an tòan hạt nhân có 450 nhân viện.
Kinh phí đầu tư hàng năm từ đây đến 2025 cho việc bảo dưỡng những nhà máy là 3,7 tỉ euros ( so với 1,5 tỉ từ 2008 đến 2010 ). Nếu kéo dài thời gian vận hành 58 lò từ 40 năm đến 60 năm, EDF phải đầu tư thêm 50 tỉ euros chưa kể ít nhất 10 tỉ euros bỏ ra để củng cố an toàn sau Fukushima. Kinh phí mà EDF dành cho việc xử lí 18546 tấn nhiên liệu sử dụng trong các lò là 14,4 tỉ euros . Những tấn nhiên liệu này hiện ở trong các nhà máy EDF hoặc ở La Hague để AREVA tái chế. Mỗi năm AREVA tái chế 1050 tấn. Pháp hiện đang tích trữ 82 tấn Plutonium.
Tòa tài khoản rất dè dặt, không đồng ý với những con số của EDF đưa ra cho hai khâu tháo gỡ ( 18, 4 tỉ euros ) và lưu trữ chất thaithái phóng xạ ( 23 tỉ euros ) quá thấp so với ngoại quốc . Con số 18,4 tỉ euros này nếu tính theo Mỹ thì sẽ lên đến 34, 2 tỉ, Nhật Bản 38,9 tỉ, Anh 46 tỉ và Đức 62 tỉ euros.
Đứng về phương diện pháp lý, khi có sự cố ở Âu Châu, trách nhiệm dân sự (responsabilité civile) tuy được ghi rõ trong thỏa ước Paris 1960 và Bruxelles 1963, nhưng cách áp dụng còn lu mờ. Trên lý thuyết, công ty khai thác nhà máy điện hạt nhân phải bồi thường nạn nhân . EDF chỉ dự trù 80 triệu cho mỗi sự cố, một con số tượng trưng quá nhỏ! Rốt cuộc, nhà nước cũng phải đứng ra bồi thường nạn nhân nếu xẩy ra tai biến lớn. Sự thật, nếu phải bảo hiểm tất cả những nhà máy điện hạt nhân thì phải cần một số tiền khổng lồ và như thế chẳng nước nào dám xây cất ! Đó là trái bom tài chánh nổ chậm của ngành hạt nhân dân sự. Thảm họa Fukushima đã làm nước Nhật mất ít nhất 100 tỉ euros, chưa kể hàng trăm tỉ dành cho phần bồi thường nạn nhân. Có thể một ngày gần đây TEPCO sẽ bị quốc hữu hóa.
Điện hạt nhân Việt Nam sẽ đắt hơn năng lượng tái tạo
RFA : Giáo sư thường tuyên bố rằng điện hạt nhân không thể nào kinh tế ở Việt Nam . Xin Giáo sư cho biết lý do và như thế thì phải giải quyết bài toán năng lượng như thế nào để đáp ứng nhu cầu ?
GS Nguyễn Khắc Nhẫn: Trong trường hợp của Việt Nam, về mặt kinh tế vĩ mô, cần phải tính đến ảnh hưởng của điện hạt nhân đến sự phát triển kinh tế, tỉ số đầu tư trên dự trữ quốc gia, cải thiện (hay không) cán cân thương mại, sức cạnh tranh kinh tế, sự đảm bảo cung cấp, sự giảm chi phí năng lượng, tạo ra công ăn việc làm, ảnh hưởng xã hội (dân chúng có chấp nhận không ?)
Cơn khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay có nguy cơ gây nên những vấn đề nghiêm trọng về nguồn vốn nhất là khi PIB có hướng giảm và lạm phát tăng.
Ở Việt Nam, việc hoạch định chính sách năng lượng không thật sự chặt chẽ và không khả thi về mặt tài chính. Ta quá chú trọng đến điện lực mà không nghiên cứu tỉ mỉ toàn bộ lĩnh vực kinh tế năng lượng. Tiêu thụ điện của nước ta không thể đạt được con số 537 TWh ( kịch bản trung bình) vào năm 2030 như đã công bố ! Con số này cao hơn lượng tiêu thụ của Pháp hiện nay. Không một nước nào trên thế giới có thể chạy theo con số tăng trưởng chóng mặt là 15% mỗi năm. Điều này có nghĩa là cứ 5- 6 năm phải tăng gấp đôi công suất của tất cả các nhà máy và lưới điện. Với PIB 6%, hệ số đàn hồi của ta là 2,5 một con số cao nhất nhì thế giới, chứng tỏ tiềm năng tiết kiệm năng lượng của ta rất lớn. (Xin mời các bạn xem các bài của Giáo sư Phạm duy Hiển)
Khả năng sinh lợi của nhà máy điện hạt nhân phải được trình bày rõ ràng. Tỷ suất hiện tại hóa a ( taux d'actualisation ) là bao nhiêu trong bài toán kinh tế ? Mức lãi suất phát sinh là bao ? Phương pháp nào để lựa chọn ( choix des investissements ) tối ưu các thiết bị sản xuất ? Khi mà dự báo bị thổi phồng quá mức, thật khó để điều chỉnh cân bằng giữa cung và cầu ! Sự hợp lí trong các lựa chọn phải được chứng minh và bài toán tài chính phải kể đến chi phí gây ra bởi sự sụp đổ bất ngờ của hệ thống điện ( coût de la défaillance).
Về mặt luật pháp và an toàn, cần phải thành lập nhiều cơ sở có chất lượng. Cơ quan an toàn hạt nhân phải hoàn toàn độc lập, dựa trên năng lực và sự chặt chẽ khách quan. Fukushima đã cho thế giới thấy sự yếu kém và khiếm khuyết của các cơ quan có trách nhiệm. Cơ quan an toàn hạt nhân Nhật Bản đã bị áp lực trực tiếp của chính phủ và các ngành công nghiệp có liên quan. Chặng đường dài mà một hồ sơ xin phép xây dựng nhà máy điện hạt nhân phải trải qua nhiều năm ở Mỹ hay ở Pháp chứng tỏ sự khó khăn và phức tạp về mặt hành chính và luật pháp, làm kéo dài thời gian và tăng mạnh kinh phí.
Địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận, không nằm ngoài những bất thường thời tiết (lũ lụt, bão lụt, động đất, sóng thần…). Vài trận động đất lớn (6,8° Richter) đã diễn ra, năm 1935 tại Điện Biên và năm 1983 tại Tuần Giáo.
Chúng ta biết rằng sau trận động đất ngày 16-07-2007 (6,8° Richter), chính phủ Nhật đã ra lệnh cho TEPCO đóng cửa nhà máy điện hạt nhân lớn nhất (Kashiwazaki-Kariwa – 8212 MW ) trong vòng một năm và tăng cường hệ số an toàn về động đất cho cả tổ hợp này.
Khi xem xét tổng thể các khâu và nếu ta tính thêm vào chi phí dành cho chuyên gia, thiết bị, uranium làm giàu, nhập cảng từ nước ngoài, chi phí xử lí nhiên liệu, lưu trữ chất thải phóng xạ và chi phí tháo gỡ khổng lồ hàng chục tỷ đôla (chi phí dự trù cho việc tháo gỡ 5 lò ở Thụy sĩ lên đến 23 tỷ đôla), tôi khẳng định rằng kWh điện hạt nhân Việt Nam không thể nào kinh tế được. Chọn năng lượng hạt nhân với một chương trình đầy tham vọng và phiêu lưu ( 8 lò phản ứng từ năm 2014 đến 2031) là một lỗi lầm hết sức lớn về mặt chiến lược kinh tế và công nghiệp. Ai đứng ra chịu trách nhiệm đối với đất nước và các thế hệ mai sau ? Năm 2020 khi có điện hạt nhân thì giá thành kWh năng lượng tái tạo đã kinh tế !
Nếu có một chính sách rõ ràng, quyết tâm khuếch trương mạnh và nhanh chóng năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng, sử dụng hiệu quả năng lượng, trữ lượng tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam như than, khí đốt, dầu mỏ, thủy điện, gió, mặt trời sinh khối... cho phép đảm bảo nhu cầu của quốc gia trong nhiều năm tới. Ta đi vay để vứt tiền ra cửa sổ hay sao?
Vì sự sống còn của đất nước, một lần nữa tôi thiết tha yêu cầu chính phủ Việt Nam hủy bỏ ngay chương trình xây dựng những nhà máy điện hạt nhân hết sức tốn kém và vô cùng nguy hiểm để Ninh Thuận khỏi trở thành Fukushima.
Tôi cũng tha thiết yêu cầu chính phủ Nhật Bản đừng cho phép các công ty bán lò cho Việt Nam để uy tín đối với thế giới khỏi sứt mẻ và cũng để tránh cho dân chúng Nhật Bản oán hận một lần thứ hai (xin đọc thư của Giáo sư Phạm duy Hiển gửi ngày 24-1-2011 cho Thủ tướng Naoto Kan) . Tôi sẵn sàng thảo luận với bất cứ chuyên gia nào để chứng minh rằng không thể có an toàn và giá điện hạt nhân ở Việt Nam sẽ đắt hơn giá năng lượng tái tạo.
Nhân ngày kỉ niệm năm đầu tiên của thảm họa Fukushima, tôi thành kính nghiêng mình, cầu nguyện và tưởng nhớ đến những nạn nhân vô tội và những Anh hùng Nhật Bản đã phải hy sinh trong nhà máy, do sự điên cuồng của một nhóm người có thế lực, nhưng thiếu tinh thần trách nhiệm, coi nặng đồng tiền hơn là tính mệnh con người !
Grenoble 11-3-2012
Cách tính kinh phí đầu tư 1 kW :
Bài tính này tương đối phức tạp và dài dòng, tôi chỉ xin tóm tắt vài nét chính. Trước hết, một số tiêu chuẩn kỹ thuật cần biết là: công suất lò, số lò, vị trí (cạnh sông hay biển), nhịp độ xây cất, phương pháp ráp máy, hiệu lực dây (effet de série). Để thấy rõ vai trò quan trọng của tỷ suất hiện tại hóa a (taux d’actualisation a) tôi xin phép đưa ra một công thức thông dụng ở EDF.
N CT(n)
D= Σ = = CA
1 (1+a)n-1/2
D: kinh phí hiện tại hóa (dépense actualisée) mỗi kW.
N: thời gian vận hành của lò (21 năm).
C: giá mỗi kWh.
a: 9%.
n-1/2: vì chi phí rất lớn xem như tập trung ở giữa năm.
T(n): số giờ vận hành thay đổi tùy năm: 4 400 giờ (năm 1), 5 300 giờ (năm 2 và 3), 6 200 giờ (năm 4 đến 21). Ba năm đầu số giờ vận hành thấp vì còn ở trong thời kỳ điều chỉnh máy móc.
A: Tổng số giờ vận hành hiện tại hóa (utilisation actualisée) (A: 56 900 giờ với các số cho trên).
Lấy ví dụ nhà máy Nogent S/Seine (2x1300 MW) gần Paris, kinh phí đầu tư mỗi kW là 8 225 F (giá năm 1989). Điều cần ghi nhớ là giá thành kWh của EDF kinh tế vì các lò vận hành ở đáy đồ thị phụ tải (fonctionnement en base de la monotone de charge). Lò chạy tổng cộng 6 200 giờ trong 1 năm (8 760 giờ). Ở các nước đang phát triển giá kWh thường không kinh tế cũng vì số giờ vận hành thấp.
(Chú ý : Lúc đầu các lò phản ứng EDF được thiết kế để hoạt động trong vòng 30 năm, chứ không phải 40 năm)
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Đức rút khỏi điện hạt nhân: Suy nghĩ về trường hợp Việt Nam
Sau thảm họa Fukushima Nhật Bản, cuối tháng Năm 2011, thủ tướng Angela Merkel đưa ra kế hoạch nước Đức rút khỏi điện hạt nhân kể từ năm 2022. Quyết định này gây chấn động và làm nẩy sinh nhiều cuộc tranh luận tại nhiều nước châu Âu. RFI xin giới thiệu ý kiến của chuyên gia Nguyễn Khắc Nhẫn, nguyên cố vấn Nha kinh tế, dự báo, chiến lược EDF Paris, nguyên giáo sư Viện kinh tế, chính sách năng lượng Grenoble và Trường Đại học Bách khoa Grenoble. Là người rất quan tâm đến sự phát triển của đất nước, từ nhiều năm qua, giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn đã viết nhiều bài về vấn đề năng lượng của Việt Nam.
Một quyết định sáng suốt và dũng cảm của thủ tướng Đức Angela Merkel
RFI: Kính chào giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn, vừa qua, chính phủ Đức của thủ tướng Angela Merkel đã tuyên bố sẽ đóng cửa toàn bộ các cơ sở điện hạt nhân tại nước này vào năm 2022. Một số nước phương Tây coi đây là quyết định mang mầu sắc chính trị, phục vụ ý đồ tranh cử. Với tư cách là chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng, giáo sư bình luận gì về quyết định của Đức?
Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn: Ngày 30/5 vừa qua tại Berlin, bà Angela Merkel đã long trọng loan báo trước thế giới rằng nước Đức sẽ từ bỏ điện hạt nhân vào năm 2022. Dự luật được phê chuẩn ngày 6/6 gần giống dự luật của chính phủ Gerhard Schröder, thông qua năm 2000, bắt buộc đóng cửa nhà máy điện hạt nhân cuối cùng vào năm 2021.
Quyết định của bà Angela Merkel có thể gây ngạc nhiên vì tháng 9/2010, chính phủ của bà ta vừa đồng ý cho các công ty điện kéo dài thêm trung bình 12 năm các lò phản ứng cũ nhất. Trong số 17 lò phản ứng, 7 lò đã đóng cửa ngay từ khi có tai biến Fukushima vì đã hết hạn vận hành (trên 30 năm hoạt động).
Những lobby hạt nhân nói đó là một quyết định hoàn toàn mang tính chính trị, điều này không đúng hẳn. Là một nhà vật lý, bà Angela Merkel biết rất rõ mối nguy hiểm của điện hạt nhân. Bà ta đã lấy một quyết định sáng suốt, hết sức khôn ngoan, về mặt chiến lược lẫn kinh tế kĩ thuật, để tránh cho đất nước một thảm họa như Tchernobyl hay Fukushima. Bộ trưởng Môi trường, Norbert Röttgen, trong chính phủ của bà Angela Merkel tuyên bố rằng quyết định trên không thể đảo ngược được.
Kinh phí dự kiến của việc từ bỏ điện hạt nhân
RFI: Thưa giáo sư, việc đóng cửa các lò hạt nhân cũng rất tốn kém, nước Đức dự kiến cho công việc này ra sao?
Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn: Về khía cạnh tài chính, thật sự đó là một đòn nặng nề đối với các công ty khai thác nhà máy điện hạt nhân khi họ đã mất khoảng 500 triệu euro vì việc đóng cửa 7 lò phản ứng cũ từ cách đây hơn 3 tháng. Lợi nhuận hằng năm sẽ giảm 6.4 tỷ euro lúc tất cả các nhà máy đóng cửa vĩnh viễn. Dự kiến lợi nhuận sẽ bớt 30% vào năm 2012. Hằng năm, chính phủ Đức sẽ mất khoảng 2.3 tỷ euro (thuế đối với nhiên liệu hạt nhân) và cũng mất thêm 300 triệu euro liên quan đến nguồn đóng góp của các nhà sản xuất điện dành cho quỹ phát triển năng lượng tái tạo.
Nước Đức chấp nhận trả giá rất đắt cho việc từ bỏ điện hạt nhân bởi ngoài việc phải mất đi một nguồn thu cho ngân sách, họ phải dành một khoản đầu tư rất lớn cho năng lượng tái tạo. Giá kWh hiện nay đã cao tại Đức, sẽ tăng từ 20% đến 30% từ đây đến 2020. Các công ty sẽ chịu 3/4 của phần tăng thêm này được ước tính trên 33 tỷ euro.
Những kinh phí khác của việc chuyển đổi toàn bộ ngành công nghiệp hạt nhân vẫn chưa được biết chính xác.
Cuộc cách mạng điện Xanh của Đức
RFI: Tại châu Âu, Đức là một trong những quốc gia có truyền thống trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, sinh thái. Phong trào bảo vệ môi truờng đã xuất hiện từ những năm 70 của thế kỷ trước. Giáo sư nhận định thế nào về cuộc cách mạng Điện Xanh tại Đức?
Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn: Quyết định từ bỏ điện hạt nhân của Đức, một cường quốc có công nghiệp đứng hàng thứ 3 thế giới, là dấu hiệu của một chuyển biến quang trọng, có tính quyết định, trong lĩnh vực năng lượng thế giới. Nó thể hiện mong muốn của dân chúng ở Đức, đặc biệt nhạy cảm, cũng như ở nhiều nước châu Âu khác, sau thảm họa Fukushima.
Đó là một bài học sâu sắc, khôn ngoan, dành cho tất cả các nước nói chung và Việt Nam nói riêng.
Đằng sau quyết định nổi bật, đáng phục này, là một chiến lược công nghiệp ấn tượng, một kế hoạch đổi mới công nghệ khổng lồ, cho phép nước Đức giữ vững được sự tăng trưởng kinh tế. Từ 20 năm nay, nước Đức đã xây dựng một nền công nghiệp năng lượng tái tạo đầy chất lượng. Sự chuẩn bị có phương pháp và có tính lâu dài đối với năng lượng tái tạo đã cho nước này đi trước một bước rất xa và có ưu thế cạnh tranh lớn. Kể từ đây, công nghiệp năng lượng xanh của Đức, sẽ phát triển hùng mạnh, và nước này sẽ nhanh chóng trở thành vô địch thế giới về năng lượng tái tạo. Đó là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế Đức, tính đến cả công ăn việc làm và giá trị mà nó tạo ra. Năm 2010, với sự đầu tư 27 tỷ euro cho thiết bị sản xuất và phân phối năng lượng xanh, đã có 370 000 việc làm được tạo ra, tức gấp đôi so với năm 2004. Trong một ngày gần đây, con số này sẽ vượt quá 500 000. Lĩnh vực năng lượng tái tạo sẽ qua mặt lĩnh vực hóa chất và tiến gần đến ngành công nghiệp ôtô, đầu tàu tạo công ăn việc làm.
Luật đầu tiên về giúp đỡ và khuyến khích dân chúng, bắt buộc các công ty phải mua điện sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo với giá hấp dẫn, đã xuất hiện từ năm 1991. Những văn bản khác nhằm cải thiện các công cụ hỗ trợ được ban hành năm 2000 và sửa đổi cho phù hợp vào năm 2004, rồi năm 2009.
Hiện nay, điện hạt nhân (với 17 lò) đóng góp 23% vào tiêu thụ điện năng tại Đức, trong khi phần của điện « xanh » (100 TWh) trong tổng số lượng điện sản xuất ra (560 TWh) đã đi từ 3.1% năm 1990 đến 17% năm 2010, với phân bố như sau : gió (5.8%), sinh khối (4.5%), thủy điện (3.3%), mặt trời (1.9%).
Theo bộ trưởng Liên bang về môi trường, con số về phân bổ các nguồn năng lượng trong tiêu thụ năng lượng sơ cấp năm 2010 như sau : dầu mỏ, fioul (35%), khí tự nhiên (22%), than đá (12%), than nâu (11%), hạt nhân (11%), tái tạo (9%).
Không nên nhầm lẫn con số về điện và năng lượng sơ cấp ( bao gồm tất cả các nguồn năng lượng).
Theo dự đoán của Berlin, phần năng lượng tái tạo trong sản xuất điện của Đức sẽ đi từ 17% hiện nay lên đến 35% (thậm chí 50%) vào năm 2020 và 80% vào năm 2050.
Sự thành công trong công nghiệp năng lượng tái tạo
RFI: Thưa giáo sư, tại châu Âu, nước Đức cũng đi tiên phong trong việc đầu tư, phát triển công nghệ và công nghiệp năng lượng tái tạo?
Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn: Nhờ vào ý chí chính trị và trợ giúp tài chính của chính phủ, nước Đức từ lâu đã được xem như là nước dẫn đầu không thể chối cãi trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. Sự thành thạo về công nghệ và năng lực công nghiệp của Đức trong lĩnh vực năng lượng gió và mặt trời được thừa nhận và đánh giá cao. Năm 2010, với công suất lắp đặt tuabin gió là 27 000 MW, nước Đức sản xuất khoảng 25% tổng số năng lượng gió của thế giới. Đức đứng hàng thứ 2 thế giới, chỉ sau Mỹ, về năng lượng gió. Năm 2008, Đức thu được 12 tỷ euro nhờ xuất khẩu thiết bị. Về năng lượng mặt trời, với 5400 MW lắp đặt, thị trường này của Đức lớn hơn Tây Ban Nha và Nhật Bản. Trong lĩnh vực năng lượng xanh, nước Đức có rất nhiều công ty vừa và nhỏ chuyên về kỹ thuật cao. Về năng lượng gió, có thể kể tên các công ty vô địch như Enercon, Repower, Nordex, Siemens Windpower. Từ lâu, họ cung cấp tua bin gió trên khắp thế giới. Về năng lượng mặt trời, Solar World, Q-Cells với hàng ngàn nhân viên, có mặt trên thị trường chứng khoán, Điều má Đức lo ngại nhất là sự cạnh tranh từ các công ty Trung Quốc.
Siemens, đối tác chính của Framatome vào năm 1989 để thiết kế và xây dựng lò phản ứng thế hệ 3 EPR, đã chấm dứt thỏa thuận hợp tác với Areva NP vào năm 2009. Ngay sau đó, Siemens muốn hợp tác với Rosatom của Nga và có tham vọng dẫn đầu trong lĩnh vực điện hạt nhân. Nhưng sau Fukushima, một thăm dò cho thấy 59% nhân viên của Siemens đồng ý với việc từ bỏ điện hạt nhân, bởi vì họ nhận thấy quá nguy hiểm, nếu tiếp tục theo đuổi lĩnh vực nguyên tử đang xuống giốc. Điện hạt nhân không còn nằm trong chiến lược của tổng giám đốc, M. Löscher, người muốn công ty của mình đứng nhất nhì trên thế giới trong các ngành công nghiệp chú trọng đến môi trường. Tập đoàn có trụ sở tại Munich này phải trả bù cho Areva NP 40% giá trị, khoảng 648 triệu euros. Điều khoản « không cạnh tranh » đến năm 2013, trên thực tế ngăn chặn sự hợp tác của Siemens với Rosatom. Nhưng Siemens có nhiều ưu thế khác. Siemens, nổi tiếng trên toàn cầu trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, cũng có tham vọng thực hiện được doanh số là 40 tỷ euro, vào năm 2014, trong việc sử dụng năng lượng và bảo vệ môi trường.
Theo viện khí hậu Wuppertal, 12 tỷ euro đầu tư trong việc sử dụng hiệu quả năng lượng cho phép tiết kiệm hằng năm hơn 19 tỷ euro và tạo ra từ 250 000 đến 500 000 việc làm ! Việt Nam nên lưu ý. Cũng cần nhấn mạnh rằng ngay cả chủ tịch Hiệp hội bảo vệ công nghiệp Đức (BDI), Hans-Peter Keitel, dù chỉ trích thời điểm cuối để rút ra khỏi điện hạt nhân là năm 2022, cũng ủng hộ việc từ bỏ này của chính phủ. Tất nhiên, sẽ còn có thêm những chi phí phải chịu đựng, nhưng cũng có những cơ hội kinh doanh mới, đặc biệt hấp dẫn, đối với nền công nghiệp và kinh tế Đức. Nước này sẽ đầu tư lớn trong lĩnh vực năng lượng gió, mặt trời, sinh khối, khí, than, tiết kiệm năng lượng và sử dụng hiệu quả năng lượng.
Từ năm 2009, những nhà công nghiệp hàng đầu của Đức như Siemens, E.ON, RWE và Deutsche Bank đã triển khai tập đoàn Desertec Industrial Initiative ( DII ) nhằm khai thác năng lượng mặt trời và gió tại sa mạc Sahara. Đó là một dự án khổng lồ với 400 tỷ euro, liên kết khoảng ba chục dự án địa phương, mà mục tiêu là đến năm 2050 sẽ cung cấp điện cho khu vực Bắc Phi và Cận Đông, đồng thời cung cấp 15% lượng tiêu thụ của châu Âu. Desertec có tham vọng xây dựng các ngành công nghiệp mới trong khu vực đang phát triển này, ưu tiên tạo ra công ăn việc làm và chuyển giao công nghệ. Sự từ bỏ điện hạt nhân càng củng cố thêm địa vị Desertec. Hiện nay, tập đoàn nhận được sự ủng hộ của dân chúng, đảng Xanh, tổ chức Hòa bình Xanh, và tất nhiên của cả Ủy viên châu Âu về năng lượng, Günter Oettinger người Đức.
Hậu quả của thảm họa Fukushima và sự lựa chọn lịch sử của Đức
RFI: Thưa giáo sư, thảm họa Fukushima Nhật Bản đã buộc giới lãnh đạo nhiều nước trên thế giới phải xem xét lại chính sách phát triển điện hạt nhân. Ngoài quyết định mang tính lịch sử của Đức, người dân các nước khác như Ý, Thụy Sĩ, Pháp, … cũng không muốn phát triển điện hạt nhân?
Nguyễn Khắc Nhẫn: Sự lựa chọn thông minh có tính lịch sử này của nước Đức đang làm rối loạn thị trường điện châu Âu. Châu Âu đang xem xét lại chính sách năng lượng của mình và tự đặt câu hỏi về sự tồn tại của điện hạt nhân trên toàn cầu.
Sự từ bỏ điện hạt nhân của Đức có thể xem như là lời cảnh báo nghiêm túc với Việt Nam và các nước muốn dấn thân vào lĩnh vực nguy hiểm này, vô cùng tốn kém với hậu quả khủng khiếp, đối với những thế hệ mai sau. Thảm họa Fukushima và sự rút lui có trật tự của Đức đã giáng một đòn cay đắng cho những nước mơ ước hạt nhân và những lobby. Họ đã mất hết hi vọng kiếm được lợi nhuận với một thị trường 2000 tỷ euro, trị giá của 400 lò phản ứng dự trù sẽ được xây cất. Thay cho việc hồi sinh của điện hạt nhân, chúng ta đang chứng kiến sự suy tàn không thể nào tránh khỏi. Ngoài ra, phần lớn các lò phản ứng đang hoạt động hiện nay trên thế giới cũng khó có thể nhận được giấy phép để kéo dài thời gian hoạt động.
• Italy : Trong ngày trưng cầu ý kiến 13/06, thủ tướng Silvio Berlusconi đã tuyên bố « Tạm biệt hạt nhân, chúng ta phải tập trung vào năng lượng tái tạo », khi mà các phòng bỏ phiếu vẫn còn mở cửa ! 95% cử tri trả lời « không » đối việc quay trở lại điện hạt nhân. Thảm họa Fukushima và quyết định của Đức đã kích thích dư luận phản đối hạt nhân. Ngay từ năm 1987, sau thảm họa Tchernobyl, nước Ý đã nói không với điện hạt nhân, thông qua trưng cầu dân ý (tại sao Việt Nam không bắt chước cách xử lý dân chủ này?).
Kế hoạch xây dựng 4 lò EPR - Areva của Tập đoàn điện lực Ý (ENEL), với sự hợp tác của EDF, đã bị hủy bỏ. (cũng như Việt Nam, ở đây, lò phản ứng đầu tiên dự tính sẽ đưa vào hoạt động năm 2020). Hiệp định hạt nhân Pháp-Ý năm 2009, thương thảo rất khó khăn, dự kiến rằng ENEL, ngoài lò EPR ở Flamanville (Pháp), có thể chiếm 12.5% trong số các lò EPR sẽ được xây dựng ở Pháp, và có quyền hưởng lượng điện tương ứng với số tiền họ bỏ ra. Từ nay, Italy sẽ khai thác triệt để năng lượng tái tạo và than sạch. 65 kỹ sư và kỹ thuật viên của Ý đang được đào tạo tại công trường EPR Flamanville sẽ về nước. Đó là một thất bại lớn đối với Enel, EDF và đặc biệt là Areva. Công ty này còn sẽ chịu nhiều sự rút lui khác (desistement).
• Thụy Sỹ : Ngày 25/05/2011, tức 2 tháng rưỡi sau Fukushima, chính phủ Thụy Sỹ đã thông báo việc từ bỏ dần dần điện hạt nhân từ đây đến năm 2034 (Lò cuối cùng sẽ là Leibstadt, được đưa vào sử dụng năm 1984). Chỉ 3 ngày sau trận sóng thần ác liệt ở Nhật Bản, chính phủ đã quyết định ngưng các dự án khôi phục các nhà máy. Sau thời gian khai thác, ước tính khoảng 50 năm (theo tôi là quá lạc quan, nên rút ngắn lại), 5 lò phản ứng của Thụy Sỹ sẽ không được thay thế.
Quyết định này, được nước Áo đặc biệt ủng hộ, xảy ra vào thời điểm mà ở Deauville, G8 yêu cầu tăng cường các biện pháp an toàn trong các nhà máy điện hạt nhân. Bộ trưởng năng lượng Thụy Sỹ, Doris Leuthard, tuyên bố rằng đó là một ngày lịch sử và đáng mừng vì đã lựa chọn điều tốt đẹp cho đất nước. Chi phí hằng năm cho việc từ bỏ điện hạt nhân ước tính từ 0.4% đến 0.7% PIB, tức khoảng 3 tỷ euro, và kWh sẽ tăng từ 10% đến 15%.
Chính phủ Thụy Sỹ cho rằng họ đã lựa chọn chiến lược tốt nhất, vì họ biết về lâu dài, điện hạt nhân sẽ không thể cạnh tranh được với năng lượng tái tạo. (Việt Nam nghĩ sao?). Sau đây là phân bố của năng lượng điện hiện nay: thủy điện (56%), hạt nhân (39%), nhiệt cổ điển và các dạng khác (5%). Thụy Sỹ sẽ phát triển tối đa các nguồn năng lượng Xanh, đặc biệt là thủy điện, khuyến khích tiết kiệm năng lượng, xây dựng các nhà máy chạy bằng khí, song song với việc nhập khẩu điện.
• Pháp : Sau Fukushima và trước cuộc trưng cầu ý kiến ở Ý, tờ báo JDD (Journal du Dimanche) ngày 5/6 đã đăng kết quả thăm dò của Ifop, thực hiện ngày 1/6 đến ngày 3/6 : 2/3 dân Pháp muốn chấm dứt năng lượng hạt nhân (62% đồng ý chấm dứt trong vòng 25 đến 30 năm, 15% đòi chấm dứt nhanh chóng).
Các chuyên gia của Mạng lưới từ bỏ điện hạt nhân (Réseau Sortir du Nucléaire) mới đây đã đưa ra một kế hoạch rất lạc quan (mà theo tôi nên khuyến khích nhưng rất khó thực hiện được) nhằm từ bỏ điện hạt nhân tại Pháp chỉ trong vòng 10 năm mà thôi.
Vấn đề hạt nhân cũng nằm trong chiến dịch tranh cử Tổng thống năm 2012. Đối với đảng Xanh, hoàn toàn ủng hộ lập trường của Bà Angela Merkel, việc từ bỏ điện hạt nhân là điều kiện quyết định để liên minh với đảng Xã hội. Vấn đề này cũng gây ra những phiền phức ở cánh hữu khi mà 37% số người được thăm dò ý kiến của đảng UMP, đảng nắm quyền, cũng cho rằng nên từ bỏ điện hạt nhân.
Thảm họa Fukushima đã làm thay đổi tình thế hoàn toàn, hơn nữa nó xảy ra ở một nước dân chủ và có trình độ công nghệ hết sức cao. Nước Pháp, với hai hãng khổng lồ đang gặp khó khăn tài chính, Areva và EDF (với khoản nợ 34.4 tỷ euro), không thể tiếp tục theo đuổi ảo vọng với điện hạt nhân an toàn ! Trong nhiều năm, chi phí của điện hạt nhân đã được che dấu một cách có hệ thống, và ít người biết đến sự hỗ trợ tài chính của chính phủ Pháp, từ năm 1974, cho việc nghiên cứu hạt nhân ở CEA, ước tính lên quá 159 tỷ euro. EDF sẽ phải tăng mạnh dần dần giá điện để đối phó với việc cải tiến và tu bổ các nhà máy điện hạt nhân và tuân thủ các yêu cầu nghiêm ngặt mới về an toàn.
Việt Nam nên biết là hiện nay, người ta tranh luận xung quanh hai vấn đề tối quan trọng, có thể xem như những quả bom nổ chậm : sự chôn cất lâu dài chất thải phóng xạ và việc tháo gỡ 58 lò và các cơ sở hạt nhân mà tổng chi phí có thể lên đến hàng trăm tỷ euro ! (Ví dụ cho thấy chi phí ước lượng cho việc tháo gỡ nhà máy Brennilis ở vùng Bretagne đã đi từ 50 triệu euro lên đến 500 triệu euro, tức 1000% !) Ngay cả trước Fukushima, Areva đã gặp nhiều khó khăn tài chính nghiêm trọng. Hãng đánh giá tài chính Standard & Poor's dọa sẽ đánh lùi xếp hạng, hiện nay đã xuống BBB+. Sự chậm trễ 3 năm trong việc xây dựng lò EPR ở Phần Lan khiến Areva phải trả giá rất đắt. Chi phí đầu tư tăng từ 3.2 lên 6 tỷ euros. Từ nay, Areva sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc xuất khẩu lò EPR, quá đắt và công suất quá lớn (1600 MW).
Pháp thường tự hào có công nghiệp điện hạt nhân hùng mạnh, giá điện rẻ, nhưng sự thật nó rất mỏng manh. Nếu có tai biến, trong giây phút, toàn quốc có thể bị tê liệt, vì tỷ lệ điên hạt nhân quá cao (78%). Vì hạt nhân đang gây ra lo sợ và giá dầu hỏa tiếp tục tăng cao, tất cả các tập đoàn năng lượng lớn của Pháp, Areva, Total, EDF, GDF- Suez, đều ồ ạt đầu tư vào năng lượng Xanh.
Vấn đề an toàn hạt nhân sau Fukushima
RFI: Nhật Bản là nước công nghiệp phát triển, đứng đầu nhiều lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nhưng thảm họa hạt nhân Fukushima cho thấy, điện hạt nhân có rất nhiều rủi ro và cần phải xem xét lại vấn đề an toàn hạt nhân?
Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn: 100 ngày sau Fukushima, tình hình tại Nhật Bản chưa thể ổn định, vẫn còn đáng lo ngại. Và nó sẽ kéo dài hàng chục năm ! Những tin tức dồn dập về mức ô nhiễm phóng xạ quá cao, những che đậy, dối trá của chính phủ và Tepco làm đa số dân Nhật Bản ngày nay tỏ ý muốn từ bỏ điện hạt nhân. Mặt khác nhiều nhà máy vẫn còn bị cấm hoạt động và luôn ở trong tình trạng tăng cường an toàn, bị kiểm soát và thanh tra. Các cơ quan an toàn đã đánh lừa người dân bằng cách nâng (thậm chí đến 2 lần) ngưỡng ô nhiễm chấp nhận được. Một điều không thể tha thứ ! Việc Tepco thực hiện các sarcophage tạm thời (không bằng bê tông như ở Tchernobyl) vô cùng tốn kém và ít hiệu quả, không cho phép đảo ngược tình hình. Việc di dời hàng chục, hàng trăm nghìn tấn nước phóng xạ, với sự giúp đỡ của các công ty nước ngoài, trong đó có Areva, gặp những khó khăn lớn. Chi phí mỗi ngày một tăng, có thể lên đến hàng trăm tỷ đôla. Không sớm thì muộn, Nhật cũng không tránh khỏi viêc từ bỏ điên hạt nhân.
Với 143 lò đang hoạt động, châu Âu quyết định kiểm tra sức chịu đựng (stress test) của các nhà máy. Tuy nhiên, sự tranh cãi xung quanh tiêu chí của các phép thử sức bền đã nhanh chóng gây chia rẽ. Cơ quan an toàn Tây Âu (Wenra), do Pháp dẫn đầu, chỉ muốn kiểm tra với các nguy cơ thiên nhiên (bão, lũ lụt, động đất…) trong khi Ủy ban châu Âu, được sử ủng hộ của Đức và Áo, đề nghị tính đến tất cả các nguy cơ có thể có, bất kể chúng thuộc bản chất gì (khủng bố, rơi máy bay, tấn công tin học, lỗi con người…). Vài chuyên gia cho rằng đây là cơ hội để dự báo những điều không thể dự báo, nghĩ đến những điều không thể nghĩ được, và tưởng tượng những thứ không thể tưởng tượng nổi!
Vừa qua, Paris đã tổ chức một hội nghị về an toàn hạt nhân bao gồm khoảng 30 nước tham gia (Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Canada, châu Âu...) Theo bộ trưởng Năng lượng Thụy Sỹ, từ nay, sự an toàn của các nhà máy hạt nhân của từng nước phải được kiểm tra theo cặp. Nghĩa là bắt buộc phải có sự hợp tác chuyên gia của các nước khác khi thanh tra tại một quốc gia thành viên. Việc kiểm tra sẽ công khai. Bắt buộc tính đến những sự kiện ít có khả năng xảy ra (sóng thần và động đất mạnh…). Với hướng này Pháp có nguy cơ gặp sự cố nghiêm trọng.
Theo hai chuyên gia nổi tiếng, Benjamin Dessus, chủ tịch của Global Chance, và Bernard Laponche, nhà vật lý hạt nhân đã từng làm việc ở CEA, số liệu về những tai nạn lớn xảy ra trong 30 năm gần đây, cho thấy về mặt thống kê, có thể xảy ra tai nạn lớn ở Liên Hiệp Châu Âu trong quá trình sử dụng các lò hiện tại, và xác suất xảy ra tại Pháp rất cao. Như vậy, không phải là không thể xảy ra tai nạn. Và điều đó là chưa tính đến các cơ sở sản xuất plutonium, sự vận chuyển và lưu trữ chất thải phóng xạ, hồ chứa các thanh nhiên liệu phóng xa!
Thái độ đáng lo ngại của Việt Nam
RFI: Sau Fukushima, một số nước đang có những chương trình phát triển điện hạt nhân đã phải đình chỉ các dự án, thậm chí có nước từ bỏ hẳn điện hạt nhân. Trong khi đó, chính quyền Việt Nam vẫn chủ trương duy trì các kế hoạch phát triển địên hạt nhân. Về chủ đề này, giáo sư đã nhiều lần có ý kiến khuyên can Việt Nam. Sau sự cố Fukushima, chắc giáo sư lại càng tha thiết đề nghị Việt Nam từ bỏ lựa chọn này?
Giáo sư Nguyễn Khắc Nhẫn: Cá nhân tôi rất tiếc và vô cùng lo ngại vì Fukushima không làm suy giảm niềm tin của các nhà chức trách Việt Nam đối với điện hạt nhân. Chương trình xây dựng 8 lò phản ứng từ năm 2014 đến 2031 hình như vẫn không có gì thay đổi, trong khi phần lớn các quốc gia trên thế giới từng theo đuổi hạt nhân, đều xem xét lại toàn bộ chiến lược năng lượng. Thật không phải là một điềm tốt cho đồng bào khi biết rằng hai lò phản ứng đầu tiên định xây cất ở miền Trung Việt Nam, trên dải đất rất eo hẹp, được chính phủ phó thác cho Nga và Nhật, những nước đã chịu thảm họa Tchernobyl và Fukushima !
Nhằm xoa dịu sự lo lắng của dân chúng, giới thẩm quyền nhắc đi nhắc lại rằng các lò phản ứng được chọn, thuộc thế hệ thứ 3+, đảm bảo an toàn. Từ gần mười năm nay, tôi đã cho biết là không có lò phản ứng nào trên thế giới, thậm chí kể cả lò thế hệ 4 đang trong quá trình thiết kế, có thể tránh khỏi những tai nạn nghiêm trọng. Lò phản ứng EPR của Areva, đặc biệt đắt tiền và nổi tiếng về sự an toàn (trên lý thuyết), cũng sẽ không chịu đựng được các cuộc tấn công khủng bố có chủ đích hoặc những máy bay cảm tử lớn đâm vào. Việt Nam phải hiểu rằng cuộc tranh luận về điện hạt nhân không thể chỉ giới hạn trong vấn đề an toàn mà thôi.
Tôi có thể quả quyết rằng giá kWh điện hạt nhân ở nước ta sẽ không kinh tế, nếu phân tích và tính toán một cách khoa học. Bao vấn đề quan trọng cần được xem xét chu đáo : các cơ sở công nghiệp liên hệ, trình độ và khả năng chuyên môn, luật pháp, tham nhũng, sự phụ thuộc vào quốc gia cung cấp, nhập khẩu uranium làm giàu, giá thành xây dựng, độ trễ khi thi công, các lợi ích chằng chịt, văn hóa về kỷ luật và an toàn. Đó là chưa kể đến những chi phí khổng lồ cần thiết cho việc quản lý, lưu trữ chất thải phóng xạ và việc tháo gỡ nhà máy, có thể lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm tỷ đôla ! Thật là thiếu tinh thần trách nhiệm nếu chúng ta quyết tâm để lại những di sản cực kì nguy hiểm cho các thế hệ mai sau.
Mặt khác, đừng quên rằng một tai nạn hạt nhân lớn xảy ra ở Việt Nam đồng nghĩa với sự tê liệt lâu dài của ngành du lịch, làm mất đi một nguồn ngoại tệ to lớn. Nhật Bản không còn thu hút nhiều khách du lịch như xưa, sau thảm họa Fukushima.
Hạt nhân đã mất sự tín nhiệm của dân chúng. Việt Nam, cũng như hầu hết các nước trên thế giới, phải nhanh chóng xem xét lại chiến lược năng lượng. Chúng ta không còn cách nào khác ngoài việc khai thác tối đa tất cả các nguồn năng lượng tái tạo : mặt trời, gió, thủy điện, sinh khối… Sự tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng cũng là những giải pháp chiến lược ưu tiên. Hệ số đàn hồi (coefficient d’élasticité = ΔE/E / ΔPIB/PIB ) lớn hơn 2, điều đó có nghĩa là chúng ta phí phạm quá nhiều năng lượng.
Điều cấp bách là Việt Nam phải từ bỏ ngay chương trình điện hạt nhân để đầu tư gấp vào năng lượng Xanh đầy hứa hẹn, đặc biệt là năng lượng mặt trời. Theo báo cáo của GIEC (nhóm chuyên gia liên chính phủ về biến đổi khí hậu) trình bày tại Abou Dhabi ngày 8 tháng 5 vừa qua, năng lượng tái tạo có thể đáp ứng 80% nhu cầu tiêu thụ của thế giới vào năm 2050 (điều này tương ứng với việc giảm 1/3 khí thải hiệu ứng nhà kính). Theo lời của chủ tịch GIEC, Rajendra Pachauri, chi phí sẽ nhỏ hơn 1% PIB thế giới. Cũng theo kịch bản tham vọng này, vào năm 2030 năng lượng xanh sẽ chiếm 43%.
Việt Nam không thể do dự, nghi ngờ gì nữa : năng lượng mặt trời sẽ là nguồn năng lượng của tương lai, bởi vì nó vừa vô hạn, sạch, và không nguy hiểm. Trái đất đón nhận từ mặt trời khoảng 10.000 lần năng lượng mà nhân loại tiêu thụ hàng năm ! Để thay thế năng lượng hạt nhân bằng năng lượng mặt trời, các chuyên gia đã đưa ra 5 kiểu (đang thực hiện hoặc còn là dự án) : pin mặt trời, nhiệt mặt trời, ống khói mặt trời, năng lượng mặt trời không gian và phim mặt trời. Ray Kurzweil, được Bill Gates xem như là một trong số ít những nhà tương lai học uy tín, dự đoán 100% năng lượng đến từ mặt trời, có thể đạt được trong 20 năm nữa ! Theo ý tôi, năng lượng lấy toàn bộ từ mặt trời có thể đạt được vào năm 2050, chứ không thể sớm hơn, nếu xét đến sức ỳ (inertie) trong lĩnh vực năng lượng, cần thời gian đáp ứng rất lâu dài. Năng lượng mặt trời toàn bộ không có nghĩa là bỏ hoàn toàn các nguồn năng lượng hóa thạch (than, dầu mỏ và khí đốt) cũng như các nguồn năng lượng tái tạo khác (gió, thủy điện, sinh khối…). Nên nhớ rằng tiềm năng năng lượng gió cũng to lớn và chi phí của nó càng ngày càng trở nên kinh tế, nhờ sự tiến bộ của công nghệ. Ngoài hạt nhân, tất cả các nguồn năng lượng nêu trên đều bắt nguồn từ mặt trời. Đi đâu rồi cũng trở về cội ! Nhân loại đã phung phí thì giờ và tiền bạc từ lâu mà không biết. Rút lui ngay khỏi lĩnh vực hạt nhân là hơp thời, hợp lý. Khiêu khích tạo hóa thì có ngày cũng mang họa.
Điều đáng lo ngại là thiếu sự quyết tâm chính trị mạnh mẽ của cấp lãnh đạo các nước. Tôi sẽ an tâm bao giờ nước ta có cái nhìn chiến lược về năng lượng như bà Angela Merkel. Sau Fukushima, nhân loại đang bước vào một cuộc cách mạng năng lượng Xanh toàn diện. Tại sao nước ta vẫn tiếp tục bịt tai che mắt?
Cũng như các lobby, một số chuyên gia ở Việt Nam luôn đề cao hiện tượng thay đổi khí hậu để biện minh cho các dự án điện hạt nhân. Nhưng đó không phải là một luận điểm vững chắc bởi điện hạt nhân chỉ chiếm 15% lượng điện sản xuất trên toàn cầu, và phần năng lượng do uranium so với toàn bộ năng lượng sơ cấp ngày nay chỉ chiếm 5% - 6%. Điều đó có nghĩa là thay thế điện hạt nhân bằng các nguồn năng lượng tái tạo là hoàn toàn khả thi và nên xúc tiến mạnh.
Nước chúng ta có nhiều may mắn lắm vì chưa có nhà máy điện hạt nhân nào cả. Chúng ta sẽ không tốn kinh phí khổng lồ để từ bỏ nó, và chi phí chuẩn bị lâu nay đế đi vào lĩnh vực không đáng là bao, có thể bỏ qua. Rút ngắn sự chậm trễ của chúng ta trong lĩnh vực năng lượng tái tạo so với Đức, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Ấn Độ, Mỹ hoặc Trung Quốc không phải là điều dễ dàng. Việt Nam càng chậm trễ trong việc từ bỏ điện hạt nhân, khó khăn sẽ càng chồng chất và không thể nào bắt kịp các nước trong việc phát triển năng lượng Xanh, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng. Nên biết rằng ưu điểm của năng lượng Xanh là có khả năng tạo ra rất nhiều việc làm cho đồng bào (trái với điện hạt nhân) và công nghệ không khó lắm.
Chúng ta cần phải biết làm chủ nhu cầu năng lượng, khuyến khích tự tiêu thụ nguồn năng lượng tái tạo sản xuất ra, phát triển các cơ sở năng lượng tích cực, đào tạo khẩn cấp các chuyên gia và thợ chuyên môn trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. Cũng cần nghĩ đến một chiến lược có tính giáo dục để kêu gọi dân chúng hưởng ứng cách thức tiêu thụ mới . Sự tiết kiệm năng lượng không phải ngẫu nhiên mà có được, và cũng không phải đến một cách bất thình lình từ các văn bản luật lệ.
Thời kì của các đại dự án kiểu Liên Xô đã qua rồi. Cái gì nhỏ mới đẹp! (Small is beautiful!). Triệt đẻ khai thác các nguồn năng lượng Xanh, phù hợp với các dự án nhỏ, với công suất thấp, để cung cấp các lưới điện thông minh (Smart grids). Chính năng lượng phân tán (Energie décentralisée) mới đáp ứng hoàn hảo nhất đối với các đặc tính của năng lượng lan tỏa (Energie de flux) thiên nhiên. Con người tự mình làm phức tạp vấn đề vì quá tin vào công nghệ tinh vi. Chúng ta khiêu khích tạo hóa bằng cách luôn tập trung lại những gì tạo hóa đã phân tán. Tại sao đi xa, đào sâu, tìm nguồn năng lượng hóa thạch (Energie de stock) xây dựng những nhà máy đồ sộ rồi truyền dẫn và phân phối điện trên quãng đường dài hàng chục, hàng trăm km, gây nên những tổn thất (nhiệt) tốn kém vô ích; đó là sự lãng phí. Từ nay, chúng ta phải nghĩ đến việc giảm khoảng cách giữa nơi tiêu thụ và nơi sản xuất.
Từ lâu, những bà cụ và phụ nữ Việt Nam đã nấu cơm nấu nước bằng củi hay than một cách đơn giản mà không gây cháy nổ hay để lại chất thải. Họ sáng suốt và thông minh hơn chúng ta.
Các lò phản ứng hạt nhân chẳng khác gì cái nồi nấu nước sôi, có chăng chỉ khác ở chỗ trăm nghìn lần phức tạp và tốn kém hơn. Tất nhiên, chúng làm ra điện nhờ vào uranium làm giàu nhập khẩu, thay cho củi than, bằng cách làm quay tuabin và máy phát điện. Nhưng nó lại sinh ra chất thải phóng xạ cực kì độc hại trong hàng thế kỉ. Có đáng phải trả giá như vậy không? Lò PWR được thiết kế năm 1954 là để trang bị cho tàu ngầm Nautilus của Mỹ. Lúc sơ khởi, lò hạt nhân có mục đích chiến tranh giết người chứ không phải làm điện cho hòa bình thế giới. Việt Nam phải hiểu rằng thời kỳ oanh liệt của hạt nhân đã qua rồi ! Nó không có một chút tương lai nào cả. Ngày nay một nước có nhà máy điên hạt nhân không phải là một cường quốc có uy tín như xưa.
Vì cớ gì chúng ta lại có thể nhắm mắt tin cậy ở công nghệ hạt nhân của Nga đang chuẩn bị xây lò đầu tiên cho ta? Một báo cáo trình bày ngày 9/6 vừa qua của Tâp đoàn nước này, Rosatom, gây hoang mang và lo sợ, nhất là cho nước láng giềng Norvège (Báo Le Monde ngày 25/6).
Trong số 32 lò phản ứng của Nga, nhiều khuyết điểm và cẩu thả về thiết kế hay khai thác đươc vạch trần ( nhờ thảm họa Fukushima, có nghĩa như họ không có Tchernobyl xẩy ra ?): mức độ nguy cơ động đất quá lạc quan và cách đề phòng yếu ớt, nhiều lò không có hệ thống ngưng vận hành tự động, các nhà ( batiment ) máy như Balakovo và Kalinin bị nghiêng và lún ( như một vài biệt thự ở ta ). Đó là chưa kể sự thiếu sót về số kịch bản nguy biến, sức chịu đựng lâu dài của các lò khi thiếu điện hay hệ thống làm lạnh, sự kiểm tra về khí hydro để tránh nổ, sự phân tích có hệ thống các thiết kế về an toàn.
Các chuyên gia Nhật cũng vì quá tin tưởng ở hai chữ an toàn nên mới dám xây dựng hàng loạt nhà máy nguyên tử, dọc theo bờ bể, khiêu khích trái đất lên cơn nổi giận và sóng thần ồ ạt tàn phá!
Trong vòng 50 năm qua, thế giới chỉ với 435 lò, mà đã có 5 lò bị nóng chảy : lò Three Miles Island, lò Tchernobyl và 3 lò của Fukushima. Trung bình có thể nói cứ 10 năm có một biến cố rùng rợn! Hạt nhân Fukushima hay Hiroshima, Nagasaki cũng là một. Phóng xạ giết người của bom nguyên tử hay của lò điện hạt nhân cũng là một. Những tâm lò (Coeur du réacteur) nóng chảy kia đã và đang làm bao trái tim của thường dân và con nít vô tội tan nát, các nhà lãnh đạo quốc gia có xót xa không?
Grenoble, ngày 3/7/2011
(Nguyễn khắc Nhẫn, Nguyên Cố vấn Nha kinh tế, dự báo, chiến lược EDF Paris, GS Viện kinh tế, chính sách năng lượng Grenoble, GS Trường Đại học Bách khoa Grenoble, Giám đốc Trường cao đẳng điện học và Trung tâm quốc gia kỹ thuật Sài Gòn - nay là Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét