NHÂN ĐỌC BÊN THẮNG CUỘC CỦA OSIN HUY ĐỨC (I)
Anh Gấu Phạm
NQL: Tuy có vài điểm ( nhỏ thôi) không đồng tình nhưng mình thích lập luận tươi mới của anh gấu trẻ này.
Nếu chúng ta không thể/ Làm chiếc bút chì màu/ Để vẽ nên hạnh phúc/Cho những người buồn đau.
Thì chí ít, hãy cố/ Làm chiếc tẩy, hàng ngày/ Giúp xóa sạch khỏi họ/ Những nỗi buồn đau này.
(Thơ Thái Bá Tân)
Ngày hôm qua tôi đã đọc xong bản
điện tử của quyển một (Giải Phóng) của bộ sách mới của anh Huy Đức với
tựa đề Bên Thắng Cuộc gần như liên tục trong vòng 9 tiếng. Chủ đề của
cuốn sách, những vấn đề mà nó xem xét cũng là những điều làm tôi suy
nghĩ vương vấn trong đầu nhiều năm nay.
Là một nhà báo năng động và
thành công ở Sài Gòn trong giai đoạn Việt Nam đổi mới, anh Huy Đức có
lợi thế gần như không ai có được ở khả năng tiếp cận với các cá nhân đã
từng hoặc vẫn đang là giới chức cao cấp hàng đầu của CHXHCN Việt Nam và
các nhân sỹ, trí thức và cựu quan chức của Việt Nam Cộng Hòa. Khả năng
ngoại ngữ và góc nhìn hướng ngoại của anh cũng giúp anh gặp gỡ với các
nhân vật Mỹ có liên quan tới giai đoạn lịch sử thời chiến tranh Việt
Nam. Nhờ những lợi thế này anh Huy Đức đã gom góp được một nguồn sử liệu
khổng lồ từ các trao đổi cá nhân thu thập từ chính nhân vật lịch sử.
Các thông tin nguồn chính này kết hợp với các nguồn tham khảo đồ sộ mà
tác giả sử dụng tạo dựng cho cuốn sách này vị thế của một tác phẩm kinh
điển tức thì về lịch sử Việt Nam. Tôi tin rằng hàng chục năm nữa người
ta vẫn sẽ còn tiếp tục trích dẫn từ cuốn sách này.
Anh Huy Đức không được đào tạo
về những phương pháp hiện đại nghiên cứu và tái dựng lịch sử. Anh cũng
không được đào tạo bài bản và chuyên nghiệp về báo chí mà đã tự học lên
từ thực tế công việc. Biết vậy tôi càng cảm phục hơn tinh thần và nỗ lực
làm việc nghiêm túc mà tác giả đã đổ vào tác phẩm đồ sộ này. Tôi dễ
dàng cảm nhận thấy từ giọng văn bình thản, lối trình bày thông tin, dữ
liệu tương đối cân bằng; cách tác giả không sa đà vào phân tích; cách
đặt tên các tựa đề và đề mục là tác giả đã bỏ công nghiên cứu cấu trúc
và phương pháp viết sử tương đối khoa học của các tác giả Mỹ viết sử
Việt Nam như Stanley Karnow (Vietnam: A History), William Duiker (Ho Chi
Minh: A Life), Sophie Quinn-Judge (Ho Chi Minh – The missing years).
Tôi tin cuốn sách này đã xác lập chắc chắn vị trí của anh Huy Đức trong
số những người viết sử Việt Nam hàng đầu
Tôi muốn nhấn mạnh nhận xét về
cách tác giả không sa đà vào phân tích. Điểm này đặc biệt ở chỗ nó khác
hoàn toàn văn phong báo chí đã trở nên quen thuộc của chính tác giả.
Giống phần lớn người viết Việt Nam học và làm nghề viết trong môi trường
không đề cao kỹ năng viết, nhà báo Huy Đức có xu hướng mắc phải những
lỗi lập luận đơn giản mà một nhà báo phương Tây chịu sự kiểm tra kỹ càng
của công chúng ít mắc. Tôi sơ cử ra hai lỗi đã thấy ở anh Huy Đức: một
là trích dẫn một nguồn uy tín và coi đó nghiễm nhiên là sự thật và hai
là xuất phát từ định kiến có sẵn khai triển lập luận. Tôi cảm thấy vui
mừng khi cảm nhận thấy anh Huy Đức đã áp dụng một cách thức trình bày và
phân tích thông tin dữ liệu cân bằng, khách quan và bình thản. Cách tác
giả đưa ra một lượng thông tin ngồn ngộn rồi để độc giả tự nghiền ngẫm
và quyết định cách phân tích và cảm nhận theo tôi là cách tốt nhất khi
viết về một vấn đề vẫn còn gây tranh cãi, chia rẽ, xung đột, và kể cả
thù hằn là vấn đề chiến tranh Việt Nam.
Tuy vậy, sẽ là nhầm lẫn nếu suy
luận từ sự thiếu vắng phân tích của chính tác giả trong tác phẩm để cho
rằng tác giả không có thái độ cụ thể về chủ đề của tác phẩm. Thái độ của
tác giả là gì trong trường hợp này là một thứ ý tại ngôn ngoại. Trong
hoàn cảnh hiện nay ở Việt Nam, gần như tất cả các vấn đề mà tác giả đề
cập đến (cải cách ruộng đất, học tập cải tạo, cải tạo tư sản, vượt biên
có bảo lãnh) vẫn còn là những vấn đề cấm kỵ bị tránh né (dù nhiều điều
đã là các bí mật mở). Việc tác giả tấn công trực diện từng vấn đề, nêu
đích danh tên từng nhân vật, nhiều người vẫn còn sống còn quyền sinh
quyền sát thể hiện một thái độ dũng cảm đáng kính trọng của tác giả. Sự
dũng cảm này còn được thể hiện trong việc tác giả lựa chọn tự xuất bản
sách qua kênh cá nhân như cách tuyên bố về sự độc lập, sự tự chịu trách
nhiệm. Đây cũng là một sự cẩn trọng cần thiết đối với một người viết độc
lập để giữ được uy tín với công chúng nhằm chống lại những buộc tội vô
cớ chắc chắn sẽ đến về việc tác giả bị mua chuộc bởi các thế lực. Thái
độ của tác giả trong trường hợp này có thể được so sánh như ý đồ của một
nhiếp ảnh gia trưng bày ra một hình ảnh tĩnh của thực tại. Mỗi góc
nhìn, mỗi chi tiết được nhấn mạnh, dưới ánh sáng nào, mầu sắc ra sao vv
đều được tính toán kỹ và có lý do. Mỗi người chắc sẽ có cảm nhận khác
nhau về thái độ của tác giả. Ấn tượng của tôi là về một thái độ tôn
trọng sự thật rất đáng cảm phục và học tập.
Khi nhắc đến thái độ tôn trọng
sự thật rất “đáng học tập” của tác giả, tôi đã để lòi ra một cái đuôi về
một xuất thân giống với tác giả là cùng lớn lên dưới mái trường xã hội
chủ nghĩa. “Đáng học tập” hay “đáng biểu dương” hay “nêu gương” là những
lời lẽ định hình chỉ trong môi trường thi đua phấn đấu của trường học
xã hội chủ nghĩa. Sự tương đồng này dẫn dắt tôi đến một điểm khác đáng
chú ý là việc tác giả là một trong số rất ít những người từ “bên thắng
cuộc” đưa ra một góc nhìn khác về chiến tranh. Thời nay là lúc lý tưởng
cách mạng trong xã hội Việt Nam ta đã nhạt nhòa và người ta không phải
quá o ép lời ăn tiếng nói vì thế từ người bình dân tới cán bộ cao cấp ai
ai cũng có thể nói những lời xét lại về quá khứ mà không sợ bị trừng
phạt. Tuy thế việc viết ra một cách có hệ thống các quan điểm xét lại
này vẫn là điều không được chấp nhận. Một vài người viết như Bảo Ninh
với Nỗi buồn chiến tranh, Dương Thu Hương với các suy tư về ngày
30/4/1975 đã gặp rắc rối vì các quan điểm xét lại. Để Huy Đức – một
người lớn lên trong xã hội ưu việt miền Bắc, từ nhân dân cần lao mà ra,
được giáo dục từ trong trứng nước về tư tưởng anh hùng xã hội chủ nghĩa
và tính tất thắng của phe ta, lại từng là lính chiến đấu phụng sự sự
nghiệp cách mạng cao đẹp – viết được một tác phẩm xét lại thế này cần
một nỗ lực lớn hơn nhiều lần so với một học giả nước ngoài hay “phe họ”.
Để một cá nhân đã được lập trình cho quen với vị thế tiện lợi của người
chiến thắng, người đúng, phe chính nghĩa phải suy nghĩ lại, phải phân
tích duy lý về vị thế đó và nếu thấy cần thì rời bỏ nó đòi hỏi những
hoàn cảnh, hiểu biết, tính cách cá nhân nhất định. Một yếu tố quan trọng
cần có nhưng khó có ở miền Bắc là óc tư duy phê bình. Những người như
anh Huy Đức, như tôi, như thế hệ của chúng tôi lớn lên chỉ được tiếp xúc
với thông tin một chiều và sự thật một chiều. Sự thật được đóng gói
sẵn, cần là có, rất tiện lợi và ngon lành, việc gì mà phải đi tìm ở đâu
nữa? Trong cái hang của Plato được giữ đóng và kín này thì lấy đâu ra
hạt giống cho những suy tư khác, cho sự nghi ngờ về việc có tồn tại một
thế giới khác bên ngoài hang? Cái nỗ lực của con kén phải rùng mình chui
ra khỏi cái vỏ kín tối thực sự là đau đớn. Ngoài ra việc anh Huy Đức
mới chỉ là cậu bé 13 tuổi khi kết thúc chiến tranh không có trải nghiệm
trực tiếp trong cuộc chiến nhưng vẫn chuyển mình đủ để sau này trình bày
gẫy gọn, súc tích, bình thản về những nỗi buồn chiến tranh là một tấm
gương tôi thấy đáng học tập.
Trở lại câu hỏi về hạt giống nào
của sự thật, trong hoàn cảnh như thế nào đã khởi động quá trình một
người thắng cuộc bắt đầu nghi ngờ về vị thế siêu việt của mình. Tôi cho
rằng hạt giống của sự thật thường đến trong hình hài của những mâu
thuẫn. Suy nghĩ này làm tôi nhớ đến câu cách ngôn đại ý nếu cứ nói thật
thì khỏi cần phải nhớ đã nói gì. Trong thực tế cuộc sống thì những thứ
không phải là sự thật hoặc chỉ là sự thật một chiều – tôi định nghĩa là
thứ sự thật quy ước cục bộ – sẽ bị thách thức khi không gian quy ước
cục bộ bị phá vỡ. Sẽ xuất hiện những bằng chứng về sự mâu thuẫn giữa
những thứ không phải sự thật, sự thật cục bộ, quy ước với những sự thật
toàn cục kiểm chứng được. Những bằng chứng mâu thuẫn sẽ khiến người ta
xem xét lại hệ thống niềm tin sẵn có của người ta. Nhưng trên thực tế để
đi từ chỗ bắt đầu xem xét tới chỗ có niềm tin mới là một quá trình rất
dài lâu và khó khăn, càng khó hơn trong môi trường thiếu thông tin có sự
kiểm soát, áp đặt tư tưởng.
Đối với anh Huy Đức, Dương Thu
Hương và cả tôi những bằng chứng mâu thuẫn đầu tiên đến từ chính bên
thua cuộc. Những gì chúng tôi được dạy về họ không giống những thứ chúng
tôi quan sát được ở họ. Anh Huy Đức, trong tác phẩm này, vừa trực tiếp
vừa định hướng, đã đưa ra một số lượng khổng lồ các bằng chứng loại này.
Mỗi người đọc có thể tự suy ngẫm và so sánh với niềm tin riêng của
mình. Sự thay đổi về niềm tin nếu có phải là một hành trình cá nhân.
Mười tám năm trước có lần tôi
tranh luận mười mấy tiếng đồng hồ với một người bạn nước ngoài về vấn đề
học tập cải tạo sau chiến tranh. Người bạn đó có một người bạn Việt
Kiều ở Thụy sỹ tên là Loan; cha cô Loan đã đi học tập hơn 10 năm. Người
bạn tôi nói rằng việc tập trung cải tạo giam giữ lâu dài như thế là
không cần thiết và vô nhân đạo. Tôi, bên thắng cuộc, nói rằng người
chiến thắng đã hy sinh quá nhiều để giành chiến thắng và có quyền bảo vệ
chiến thắng đấy. Bảo vệ chiến thắng bằng cách cho đối phương học tập
cải tạo là lựa chọn tử tế và nhân đạo hơn so với việc giết họ đi. Tôi
cũng nói đám người vượt biên là đám ô nhục bỏ tổ quốc ra đi vì lý do
kinh tế. Cuộc tranh luận bất phân thắng bại kết thúc bằng việc hai bên
không ai chịu ai đều khóc. Sau khi lớn lên được tiếp xúc với nhiều nguồn
thông tin và nhân vật lịch sử của cả hai bên, được đọc nhiều sách vở
bằng ngoại ngữ, rồi được qua Mỹ học về hành chính và qua đó thu thập
được những công cụ phân tích cơ sở, tôi đã dần dần tự luận ra được nhiều
điều. Giờ đây nhiều năm sau tôi tự cảm thấy đã có những niềm tin khác
cân bằng và ôn hòa hơn. Là người sinh ra sau chiến tranh, gia đình không
mất ai trong chiến tranh, hiện không hoạt động chính trị hay tham gia
đảng phái nào (tôi cũng chỉ có một đảng là đảng Việt Nam), dựa trên
những hiểu biết tự thu thập và xử lý, với tuyên bố rằng không ai mua
chuộc hay ép buộc tôi, tôi nói nhân danh cá nhân tôi rằng những gì đã
xảy ra, đặc biệt trong thời hậu chiến, như anh Huy Đức đã kể ra rành
mạch trong tác phẩm này của anh, quả thực là quá oan ức và đau khổ cho
miền Nam. Vì điều đó nhân danh chỉ cá nhân tôi tôi muốn được xin lỗi.
Theo blog FB của AGP
Đọc “Bên Thắng
Cuộc” của Huy Đức
Trần Hữu Dũng
"Bên Thắng Cuộc" của Huy Đức là
quyển sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau 1975 mà tôi
được biết (kể cả những công trình bằng ngoại ngữ của các học giả
nước ngoài). Chỉ cần đọc qua mục lục quyển sách là đủ để choáng ngợp
bởi sự súc tích của nó. Tất cả những vấn đề nổi bật đều được kể lại
với những thông tin mới lạ: từ sự cố “nạn kiều” ở miền Nam, đến
những thất bại kinh tế đưa đến chính sách Đổi Mới năm 1986, vụ "Sáu
Sứ", đến
chiến tranh biên giới Tây Nam... đều được Huy Đức thuật lại rành
mạch, lớp lang, theo ký ức của hàng trăm nhân vật chủ chốt
̶ nhiều người có những vai
trò quyết định trong các sự kiện ấy
̶ được chính tác giả phỏng vấn.
Cuốn sách đầy ắp những thông tin
mà tôi chưa từng đọc được trong bất cứ sách báo nào đã xuất bản.
Có thể nói, ngoài Huy Đức, trong lớp nhà báo hiện nay, không ai có
thể có được những phỏng vấn trực tiếp với hầu hết những nhân vật
quan trọng ở Việt Nam như thế này. Huy Đức là một trong số rất ít
(có thể đếm trên ngón một bàn tay!) ký giả Việt Nam
hiện nay có khả năng nghiệp vụ cao, dày dặn kinh nghiệm, và nhất là
có biệt tài tạo sự tin cẩn ở những người được phỏng vấn về những sự
kiện vô cùng “nhạy cảm”, thậm chí "thâm cung bí sử".
Ngoài sự cực kỳ súc tích, một
đặc điểm nổi bật khác, càng đáng ca ngợi, ở tác phẩm này là sự rất
công bằng của tác giả đối với “bên thua cuộc”. Tôi chưa bao
giờ được đọc những câu chuyên về sự gian truân (mà tôi đã nghĩ là
không bút mực nào tả xiết) của những người vuợt biên, những “thuyền
nhân”, được kể lại một cách trung thực, không phê phán, không tuyên
truyền, nhưng đầy tình người và nước mắt, như trong cuốn này. Tôi
cũng chưa bao giờ được đọc về hoàn cảnh tái sum họp của những gia
đình tập kết, hay những người bị đi cải tạo, như đã đọc ở đây.
Ở một tầm mức cao hơn, “Bên
Thắng Cuộc” lột trần nhiều “huyền thoại” về một số lãnh đạo Đảng
Cộng sản Việt Nam: Họ không phải là những ác quỷ “bán nước” (thậm
chí “vô luân” trong đời sống cá nhân) như những người thù ghét họ
thường khẳng định, nhưng cũng chẳng phải là những lãnh tụ anh minh,
tài đức, luôn luôn gắn bó, đoàn kết với nhau, như ghi trong “chính
sử” của Đảng. Họ là những con người với những tị hiềm, những
tranh chấp cá nhân, những thiếu sót ở cách cư xử trong gia đình, và,
vâng, những sai lầm nghiêm trọng về chính sách, chiến thuật, về
đường lối cai trị, và nhất là (theo tôi) cách chọn người của họ.
Những sai lầm mà, theo tôi, đã đưa đến hậu quả hiện nay (và vẫn còn
tiếp diễn chưa biết đến bao giờ) cho đất nước.
Hẵn có độc giả sẽ “than phiền”
rằng “Bên Thắng Cuộc” thiếu những phân tích tổng quan của chính
người viết, nhưng, tôi nghĩ, Huy Đức truớc hết là một ký giả, trọng
trách hàng đầu của anh là ghi lại một cách trung thực, có hệ thống,
càng nhiều càng tốt, những sự kiện xã hội, chính trị và lịch sử. Phần
vụ phân tích những sự kiện ấy thì nên để cho những người khác
(hay chính Huy Đức, trong một cuốn sách mà tôi mong anh sẽ viết sau
này). Một phê bình khác, có lý hơn, là quyển sách này vẫn còn nhiều
khoảng trống (trong dòng lịch sử). Có lẽ, khi đọc lại, tác giả sẽ
phát hiện những khoảng trống ấy và sẽ lấp chúng trong những lần tái
bản sau.
Tất nhiên, nhiều thông tin trong
cuốn này cần được kiểm chứng (nhất là thông tin về những sư kiện
liên hệ đến những quốc gia khác mà các học giả quốc tế đã nói đến
khá nhiều, dựa vào những tài liệu văn khố hải ngoại). Song, dù vài
sự kiện nào đó (ví dụ như về liên hệ với Liên Xô và Trung Quốc) có thể là chưa thật đầy đủ
(và có thể có ích hơn nếu tác giả đối chiếu với những nguồn nước
ngoài), cuốn này cũng
hữu ích vì nó cho thấy cái nhìn của người trong cuộc (về phía Việt
Nam). Nếu họ có nhận định không đúng, có thiếu sót thông tin,
và do đó có những quyết định sai lầm, thì chính sự sai lầm ấy cũng
là một dữ kiện làm rõ thêm lịch sử.
Cuốn sách sẽ là một sự thích thú
cho tất cả mọi người Việt Nam ưu tư với quê hương, mong muốn nhìn
lại chính cuộc đời mình, gia đình mình, trong gần 40 năm qua, nhưng
nó cũng là một kho tư liệu hết sức dồi dào, mới mẻ, cực kỳ quý báu
cho những học giả, những sử gia nghiên cứu về Việt Nam. Chúng
ta nên cám ơn tác giả.
Trần Hữu Dũng
11/2012
11/2012
Địa chỉ mua sách:
Ebook:
Kindle của
Amazon:
http://www.amazon.com/dp/B00AKAQUJA
Các dạng khác (Nook,
etc...):
https://www.smashwords.com/ books/view/263208
Sách in:
Cuốn 1, Giải phóng,
$19.99 + $4.50 bưu phí.
Cuốn 2, Quyền bính, $19.99 + $4.50 bưu phí.
Cuốn 2, Quyền bính, $19.99 + $4.50 bưu phí.
(Hai cuốn $40 + $9.00
bưu phí).
Có thể pre-order từ
gởi check/money order đến:
Transpacific Solutions LLC
107 Marshall Drive, Sharpsburg, PA 15215
SÁCH BÊN THẮNG CUỘC: VÌ SAO TÔI VIẾT ?
Osin Huy Đức
Osin Huy Đức
Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu
không hiểu trung thực về quá khứ, nhất là một quá khứ mà chúng ta can dự và có
phần cộng đồng trách nhiệm.
Cuốn sách này bắt đầu bằng những câu chuyện xảy ra trong
ngày 30-4-1975. Ngày mà tôi, một cậu bé mười ba, trước giờ học chiều, đang vật
nhau ven đồi thì nghe loa phóng thanh truyền tin “Sài Gòn giải phóng”. Thay vì
tiếp tục ăn thua, chúng tôi buông nhau ra.
Miền Nam, theo như những bài học của chúng tôi, sẽ chấm dứt
“20 năm rên xiết lầm than”. Trong cái thời khắc lịch sử ấy, trong đầu tôi, một
sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xuất hiện ý nghĩ: Phải nhanh chóng
vào Nam để giáo dục các bạn thiếu niên lầm đường lạc lối.
Nhưng hình ảnh miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội
rời làng quê nghèo đói của mình. Trên quốc lộ Một bắt đầu xuất hiện những chiếc
xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ. Một anh
chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi đu ngoài cánh cửa gần
như chỉ trong một giây trước khi chiếc xe rú ga vọt đi. Hàng chục năm sau, tôi
vẫn nhớ hai chữ “chạy suốt” bay bướm, sặc sỡ sơn hai bên thành xe. Cho tới lúc ấy
thứ tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn
viết trên những băng khẩu hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ.
Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu
thật giản đơn: Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe
trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; con búp bê nhựa -
biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe - buộc trên ba lô của một anh bộ
đội phục viên may mắn.
Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh... được các anh bộ đội
giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần
gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày[1], Thép Đã Tôi Thế Đấy[2]… Những chiếc máy Akai,
radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết
những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm
Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo
khoa của chúng tôi.
Tôi vẫn ở lại miền Bắc, chứng kiến thanh niên quê tôi đắp đập,
đào kênh trong những năm “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội”. Chứng kiến khát vọng “thay trời, đổi đất sắp đặt lại giang san”
của những người vừa chiến thắng trong cuộc chiến ở miền Nam... Chứng kiến cũng
những con kênh đó không những vô dụng với chủ nghĩa xã hội mà còn gây úng lụt
quê tôi mỗi mùa mưa tới.
Năm 1983, tôi có một năm huấn luyện ở Sài Gòn trước khi được
đưa tới Campuchia làm chuyên gia quân sự. Trong một năm ấy, hai cô em gái của
Trần Ngọc Phong[3], một người bạn học chung ở trường sỹ quan, hàng tuần mang tới
cho tôi bốn, năm cuốn sách. Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và
sân khấu ca nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ sau 8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn
là một “nền văn minh”. Những năm ấy, góc phố nào cũng có mấy bác xích lô, vừa mỏi
mòn đợi khách vừa kín đáo đọc sách. Nhiều người trong số họ mới ở trong các trại
cải tạo trở về. Tôi bắt đầu tìm hiểu Sài Gòn từ câu chuyện của những bác xích
lô quen như vậy…
Mùa Hè năm 1997, một nhóm phóng viên vì nhiều lý do phải rời
khỏi tờ báo Tuổi Trẻ như Đoàn Khắc Xuyên, Đặng Tâm Chánh, Đỗ Trung Quân, Huỳnh
Thanh Diệu, Nguyễn Tuấn Khanh, Huy Đức… Chúng tôi thường xuyên gặp gỡ, chia sẻ
và trao đổi với các đồng nghiệp như Thúy Nga, Minh Hiền, Thế Thanh, Cam Ly,
Phan Xuân Loan… Thế Thanh lúc ấy cũng vừa bị buộc thôi chức Tổng biên tập báo
Phụ Nữ Thành Phố, và cũng như Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ Kim Hạnh trước đó, chị
không được tiếp tục nghề báo mà mình yêu thích.
Chúng tôi nói rất nhiều về thế sự, về những gì xảy ra trên
thế giới và ở đất nước mình. Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh,
người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng
Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước
này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến câu nói đó của Tuấn Khanh,
nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một
quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau
năm 1975 trong một cuốn sách.
Rất nhiều thế hệ, kể cả con em của những người đã từng phục
vụ trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, sau ngày 30-4-1975, cũng trở thành sản phẩm
của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhiều người không biết một cách chắc chắn điều
gì đã thực sự xảy ra thậm chí với ngay chính cha mẹ mình.
Không chỉ thường dân, cho đến đầu thập niên 1980, nhiều
chính sách làm thay đổi số phận của hàng triệu sinh linh như “Phương án II”[4],
như “Z 30”[5] cũng chỉ được quyết định bởi một vài cá nhân, nhiều người là ủy
viên Bộ chính trị cũng không được biết. Nội bộ người Việt Nam đã có nhiều đụng
độ, tranh cãi không cần thiết vì chỉ có thể tiếp cận với lịch sử qua những
thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên truyền. Không chỉ các
thường dân, tôi tin, những người cộng sản có lương tri cũng sẽ đón nhận sự thật
một cách có trách nhiệm.
Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người
tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt
hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền
Bắc. Hãy để cho các nhà kinh tế chính trị học và các nhà xã hội học nghiên cứu
kỹ hơn hiện tượng lịch sử này. Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ bắt đầu kể những
gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau ngày 30-4: cải tạo; đánh tư sản; đổi tiền…
Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970, một với
Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt
biên sau năm 1975, nói về sự “đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu
thương để dành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.
Tư liệu cho cuốn sách được thu thập trong hơn hai mươi năm,
và trong vòng ba năm (từ tháng 8-2009 đến tháng 8-2012) tôi đã dành toàn bộ thời
gian của mình để viết. Bản thảo cuốn sách đã được gửi tới một số thân hữu và một
số nhà sử học, trong đó có 5 nhà sử học của Mỹ chuyên nghiên cứu về Việt Nam.
Sau khi sửa chữa, bổ sung, tháng 11-2012, bản thảo hoàn chỉnh đã được gửi đến một
số nhà xuất bản trong nước, tuy nhiên, nó đã bị từ chối. Cho dù một số nhà xuất
bản tiếng Việt có uy tín tại Mỹ và Pháp đồng ý in, nhưng để lãnh trách nhiệm cá
nhân và giữ cho cuốn sách một vị trí khách quan, tác giả quyết định tự mình đưa
cuốn sách này đến tay bạn đọc.
Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật.
Tuy tác giả có những cơ hội quý giá để tiếp cận với các nhân chứng và những
thông tin quan trọng, cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, chắc
chắn sẽ còn được bổ sung khi một số tài liệu được Hà Nội công bố. Hy vọng bạn đọc
sẽ giúp tôi hoàn thiện nó trong những lần xuất bản sau.
Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật là một
con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc.
Sài Gòn - Boston (2009-2012)
Huy Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét