NHẬN ĐỊNH VÀ GÓP Ý
DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP NĂM 1992 (SỬA ĐỔI NĂM 2013)
Nhà
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã công bố bản Dự thảo sửa đổi
Hiến pháp (sau đây gọi tắt là Dự thảo) để lấy ý kiến nhân dân từ ngày
2.1.2013 đến ngày 31.3.2013. Chúng tôi tán thành việc làm này, vì Hiến
pháp của một quốc gia trước hết và trên hết phải là của chính người dân,
do ý thức trách nhiệm của người dân và để phục vụ mọi người dân, không
loại trừ ai. Ý thức trách nhiệm công dân, nhân danh Hội đồng Giám mục
Việt Nam, Ban Thường vụ kính gửi đến Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992 và nhân dân cả nước một số nhận định và góp ý.
I. Quyền con người
Bản
Dự thảo đã dành cả chương II (điều 15-52) để nói về quyền con người.
Quyền con người đã được chính thức nhìn nhận trong Tuyên ngôn quốc tế về
quyền con người (10.12.1948), và Việt Nam cũng đã ký kết. Bản Dự thảo
đã liệt kê khá đầy đủ những quyền căn bản của con người. Vấn đề là làm
thế nào để những quyền ấy được hiểu đúng, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
theo pháp luật trong thực tế?
Quyền
con người là những quyền gắn liền với phẩm giá con người, do đó là
những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm và bất khả nhượng. Phổ quát vì
tất cả mọi người, thuộc mọi thời và mọi nơi, đều được hưởng những quyền
đó. Bất khả xâm phạm vì xâm phạm là tước đoạt phẩm giá làm người. Bất
khả nhượng vì không ai được phép tước đoạt những quyền đó của người
khác.
Quyền
bính chính trị được nhân dân trao cho nhà cầm quyền là để tạo điều kiện
pháp lý và môi trường thuận lợi cho việc thực thi quyền con người, chứ
không phải để ban phát cách tùy tiện. Do đó, để quyền con người thật sự
được “Nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo hiến
pháp và pháp luật” (điều 15), chúng tôi thấy cần làm sáng tỏ một số
điều.
Dự
thảo khẳng định quyền tự do ngôn luận (điều 26), quyền sáng tạo văn
học, nghệ thuật (điều 43), quyền tự do tín nguỡng, tôn giáo (điều 25).
Tuy nhiên, ngay từ đầu, Dự thảo lại khẳng định đảng cầm quyền là “lực
lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng” (điều 4). Như thế, phải hiểu thế nào
và làm sao thực thi quyền tư do ngôn luận và sáng tạo văn học, nghệ
thuật, bởi lẽ tư tưởng đã bị đóng khung trong một chủ thuyết rồi? Tương
tự như thế, phải hiểu thế nào và làm sao thực thi quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, bởi lẽ chủ
nghĩa Mác-Lênin tự thân là chủ nghĩa vô thần? Phải chăng những quyền
này chỉ là những ân huệ được ban cho nhân dân tùy lúc tùy nơi, chứ không
phải là quyền phổ quát, bất khả xâm phạm, và bất khã nhượng? Hiến pháp
cần phải xóa bỏ những mâu thuẫn và bất hợp lý này, thì mới có sức thuyết
phục người dân và thu phục lòng dân.
Trong
thực tế, sự trói buộc tư tưởng vào một hệ ý thức duy nhất đã kìm hãm tư
duy sáng tạo của người dân Việt Nam. Ðây là một trong những lý do lớn,
dẫn đến tình trạng trì trệ và chậm tiến của Việt Nam về nhiều mặt: giáo
dục, khoa học và công nghệ, văn hóa và nghệ thuật. Nếu cần một nền tảng,
chúng tôi thiết nghĩ đó phải là truyền thống văn hóa
phong phú của dân tộc Việt Nam, chứ không phải một hệ ý thức nào khác.
Truyền thống văn hóa ấy đã được hình thành trãi qua nhiều thế kỷ, giúp
dân tộc Việt Nam xây dựng và phát triển đất nước, kiến tạo lối sống đầy
tính nhân văn. Nền văn
hóa đó chính là nền tảng cho đời sống xã hội của dân tộc Việt Nam,
những tư tưởng mới có thể và cần được đón nhận để bổ túc cho phong phú,
nhưng không thể thay thế. Có như vậy mới mong giữ gìn và phát huy bản
sắc dân tộc giữa những thay đổi mau chóng của thời đại toàn cầu hóa ngày
nay.
Do đó, chúng tôi đề nghị:
l. Hiến
pháp cần xác định rõ: mọi người đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và
quyền. Quyền con người là những quyền gắn liền với phẩm giá làm người,
và vì thế, là những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm, bất khả nhượng.
2 . Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt Nam.
3 .
Nêu rõ nội dung quyền được sống (đối chiếu với điều 21 Dự thảo): mọi
người đều có quyền sống. Không ai được phép tước đoạt sự sống của người
khác, từ khi thành thai đến khi chết. Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ sự
sống con người. Mọi người đều có quyền bảo vệ sự sống của mình, miễn là
không làm tổn hại đến sự sống của người khác.
4 .
Nêu rõ quyền tự do ngôn luận (đối chiếu điều 26 Dự thảo): mọi người đều
có quyền tự do tư tưởng, tự do trình bày quan điểm và niềm tin của
mình.
5 .
Nêu rõ quyền tự do tôn giáo (đối chiếu điều 25 Dự thảo): mọi người đều
có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Quyền này bao hàm việc tự do theo
hay không theo một tôn giáo nào, tự do thực hành các nghi
lễ tôn giáo, cá nhân hoặc tập thể. Không tôn giáo nào hoặc chủ thuyết
nào được coi là bó buộc đối với người dân Việt Nam. Nhà nước không tuyên
truyền tiêu cực về tôn giáo, không can thiệp vào công việc nội bộ của
tôn giáo như: đào tạo, truyền chức, thuyên chuyển, chia tách sát nhập...
Các tổ chức tôn giáo có quyền tự do hoạt động
xã hội cộng đồng như giáo dục, y tế...
H. Quyền làm chủ của nhân dân
Quyền
bính chính trị cần thiết để điều hành xã hội, nhưng chủ thể của quyền
bính chính trị phải là chính nhân dân xét như một toàn thể trong đất
nước. Nhân dân trao việc thi hành quyền bính ấy cho những người có năng
lực và tâm huyết mà họ bầu làm đại diện cho họ, bất kể người đó thuộc
đảng phái chính trị hoặc không thuộc đảng phái nào. Chỉ khi đó mới có
Nhà nước pháp quyền “của dân, do dân và vì dân” (Lời nói đầu). Vì thế
việc tự do ứng cử của mỗi công dân là đòi hỏi tất yếu trong một xã hội
dân chủ, văn minh và lành mạnh. Ðồng thời việc bỏ phiếu công khai, khách
quan và công bằng, là
đòi hỏi cần thiết để người dân có được những đại diện mà họ tín nhiệm.
Chính nhân dân có quyền đánh giá năng lực của những đại diện họ đã bầu,
và khi cần, họ có quyền thay thế những đại diện đó.
Do đó, chúng tôi đề nghị:
l .
Hiến pháp cần phải làm nổi bật quyền làm chủ của nhân dân, không chỉ
bằng một mệnh đề lý thuyết nhưng cần được thể hiện trong những điều
khoản cụ thể của Hiến pháp, và có thể thi hành trong thực tế. Bản Dự
thảo khẳng định: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức” (Ðiều 2). Nhưng trong thực tế, công nhân, nông dân và trí
thức là những thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội. Thực
tế đó cho thấy khẳng định về quyền làm
chủ của nhân dân chỉ có trên giấy tờ và lý thuyết.
2. Ðể
tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, trong Hiến pháp không nên và
không thể khẳng định cách tiên thiên sự lãnh đạo của bất kỳ đảng phải
chính trị nào (X. điều 4), vì chủ thể của quyền bính chính trị là chính
nhân dân, và nhân dân trao quyền bính đó cho những người họ tín nhiệm
qua việc bầu chọn. Những cá nhân được bầu phải chịu trách nhiệm trước
nhân dân về việc họ làm, chứ không thể là một tập thể mơ hồ rồi cuối
cùng không ai chịu trách nhiệm cả.
3. Hiến
pháp hiện hành chỉ công nhận quyền sử dụng đất chứ không công nhận
quyền sở hữu đất của công dân. Ðiều này đã gây ra nhiều lạm dụng và bất
công nghiêm trọng. Vì thế, Hiến pháp mới cần công nhận quyền sở hữu đất
đai của công dân và các tổ chức tư nhân như tuyệt đại đa số các quốc gia
trên thế giới.
4. Hiến
pháp phải tôn trọng quyền tham gia hệ thống công quyền ở mọi cấp, của
mọi công dân, không phân biệt thành phần xã hội, sắc tộc, tôn giáo...
III. Thi hành quyền bính chính trị
Quyền
bính chính trị mà nhân dân trao cho nhà cầm quyền được phân chia thành
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ðể những quyền bính này được thi
hành cách đúng đắn và hiệu quả, cần có sự độc lập chính đáng của mổi bên
và vì công ích của toàn xã hội. Trong thực tế của Việt Nam nhiều năm
qua, đã không có được sự độc lập này, dẫn đến tình trạng lạm quyền và
lộng quyền, gây ra nhiều bất công, suy thoái về nhiều mặt: kinh tế, xã
hội, đạo đức. Cuối cùng, người dân nghèo phải gánh chịu mọi hậu quả và
Việt Nam, cho đến nay vẫn bị xem là một nước kém phát triển.
Nguyên
nhân sâu xa là không có sự phân biệt giữa đảng cầm quyền và Nhà nước
pháp quyền. Điều này thể hiện ngay trong nội dung của Hiến pháp 1992, và
Dự thảo vẫn tiếp tục đường lối như thế.
Một
đàng, điều 74 khẳng định Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất”; đàng khác, điều 4 lại khẳng định đảng cầm quyền là “lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Vậy, ai lãnh đạo ai? Phải chăng Quốc hội
chỉ là công cụ của đảng cầm quyền? Nếu như thế, việc người dân đi bầu
các đại biểu Quốc hội có ý nghĩa gì? Một sự chọn lựa thật sự tự do hay
chỉ là thứ dân chủ hình thức?
Bản
Dự thảo cũng dành nhiều chương dài để nói về Quốc Hội (điều 74-90), về
Chủ tịch nước (điều 91-98), về Chính phủ và Thủ tướng (điều 99-106).
Không có chương nào và điều nào nói về Tổng bí thư đảng cầm quyền. Ðang
khi đó, thực tế là Tổng bí thư nắm quyền hành cao nhất vì cũng theo Dự
thảo, đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (điều
4)! Như thế phải chăng đảng ở trên luật pháp và ngoài luật pháp, chứ
không lệ thuộc luật pháp? Nếu đảng cầm quyền đã lãnh đạo cả Nhà nước và
xã hội, thì còn cần gì Quốc hội, cần gì đến Tòa án!
Những
phân tích trên cho thấy sự mâu thuẫn và tính bất hợp lý ngay trong nội
dung Hiến pháp. Sự bất hợp lý này dẫn đến tình trạng bất hợp lý trong
thực tế cuộc sống, là nguồn gốc của những bất công, dẫn đến bất ổn xã
hội, kìm hãm sự phát triển lành mạnh và bền vững của đất nước.
Do đó, chúng tôi đề nghị:
l .
Phải vượt qua sự bất hợp lý từ trong cấu trúc Hiến pháp, bằng cách xóa
bỏ đặc quyền của bất kỳ đảng phải chính trị nào, đồng thời nhấn mạnh vai
trò của Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”, do dân bầu
ra và là đại diện đích thực của nhân dân, chứ không phải là công cụ của
một đảng cầm quyền nào.
2 .
Xác định tính độc lập của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
cung cấp nền tảng pháp lý cho việc thi hành những quyền này cách độc lập
và hiệu quả.
3. Luật hóa sự kiểm soát của nhân dân đối với việc thi hành pháp luật bằng những quy định cụ thể.
Kết luận
Những
nhận định và góp ý của chúng tôi chỉ nhằm mục đích góp phần xây dựng
Hiến pháp cho hợp lý và hợp lòng dân. Chúng tôi ước mong mọi người dân
Việt Nam tích cực góp phần vào việc điều chỉnh Hiến pháp, phục vụ sự
phát triển toàn diện và bền vững của dân tộc Việt Nam.
Tòa Tổng Giám mục Hà Nội ngày 01 năm 03 năm 2013
TM. Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam
Tổng thư ký Chủ tịch
(đã ký) (đã ký)
Cosma Hoàng Văn Ðạt Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Giám mục Bắc Ninh Tổng Giám mục Hà Nội
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét