Cập nhật: 04:38 GMT - thứ hai, 20 tháng 1, 2014
Sát Tết Giáp Ngọ. Cái Tết thứ ba liên tiếp nền kinh tế Việt Nam chìm trong cơn suy thoái kể từ khi nhóm lợi ích ngân hàng được thả cương trục lợi từ năm 2011.
Nhưng từ nhiều năm trước đó, người dân đã phải tự lo cho nhau trước khi được trời cứu.
Ngôi nhà hoang phế
Xác chết trong ngôi nhà hoang quê quán ở Quảng Nam là của một thanh niên hành nghề nhặt ve chai.Những người dưng nhưng hảo tâm xúm lại giúp mai táng thi hài kẻ xấu số. Kẻ ra đi bất đắc kỳ tử ấy đã không chịu nổi đợt giá lạnh bất thường như một điềm gở vào những ngày cuối năm 2013.
Ngôi nhà hoang trơ tàn, thò ra những khung cửa trống hoác tối đen, với cả một khoảng trời trắng ngợp lộ thiên phía trên, khiến cho mưa gió dột từ nóc xuống bê bết cả cái nền nhà hiếm khi được gọt nhẵn.
Khắp đất nước, đâu đâu người ta cũng có cảm giác không thể sống động và buốt giá hơn về tình trạng hoang phế thân thể cùng tâm lý phế bỏ niềm tin.
Vào mùa đông năm 2013, báo chí đã lên cơn kích động trước tình cảnh những học sinh vùng cao phía Bắc áo quần xơ xác phải bắt chuột để ăn thay cơm. Nhiều cô giáo cũng phải ăn khoai trừ bữa, hệt như thời đói kém những năm 1978 - 1980.
Khẩu hiệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo về chuyện không để giáo viên nào phải nghỉ việc đã mau chóng dạt về vùng thinh không hoang lạnh.
Lời chứng cuối cùng cho việc này là hình ảnh hàng loạt giáo viên từ Thanh Hóa đến Mũi Cà Mau phải rời bỏ mái trường thân yêu, còn Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thiện Nhân lại ấm áp trong bộ đồng phục mới ủy viên Bộ Chính trị.
Con tin mãn tính
"Chợ búa những ngày sát Tết vắng tanh, không khác gì những ngày thường lặng gió. "
15 cũng là con số các nhà máy thủy điện đã đồng loạt xả lũ lên đầu dân chúng tại các tỉnh miền Trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Đắc Lắc vào nửa cuối năm 2013, mà đã dẫn đến một triết lý đúc kết không thể chí lý hơn “thủy điện xả lũ đúng quy định, chỉ có dân chết không đúng quy trình”.
Hơn năm chục mạng người đã bị hiến dâng trong cơn xả lũ mất nhân tính đó, trong lúc không có bất kỳ một quan chức hoặc một cấp thẩm quyền nào, từ Bộ Công thương đến các nhà máy thủy điện, phải gánh tội trước vành móng ngựa.
Khoảng cách biệt ghê gớm giữa chủ nghĩa thành tích và thực tiễn khác quan vẫn là khoảng tối bao trùm trong khu nhà hoang thể chế. Những địa phương kêu gào cứu đói lại chính là những nơi được tuyên dương thành tích tiên tiến về tăng trưởng GDP và cả về năng suất trồng lúa. Không kể đến những tỉnh “có lý do chính đáng” như Nghệ An, Quảng Bình khi phải trở thành nạn nhân của đợt xả lũ giết sống, ngay Khánh Hòa – một địa danh du lịch nổi tiếng ở miền Trung – cũng đã biến hiện tượng “GDP có chân” trở thành một thực thể di động.
Luôn cao gấp đôi GDP bình quân quốc gia, nhiều địa phương như Khánh Hòa dường như đã khiến ngân sách xóa đói giảm nghèo hỗ trợ cho tỉnh từ năm 1975 đến nay rất tương xứng với hình ảnh “gió vào nhà trống”.
Những cái thùng được kết cấu bởi các nhóm lợi ích ngân hàng, bất động sản, vàng, chứng khoán và tất nhiên phải kể đến những nhóm lợi ích độc quyền chính sách như điện lực, xăng dầu, gas, sữa… Những cái thùng không đáy đó cũng kết dính với một phạm trù khá mới mẻ là “nhóm thân hữu”. Nhưng với người dân thì từ lâu nay đã không còn lạ lẫm: đó chính là các nhóm chính khách móc xích với các nhóm lợi ích để trục lợi sức dân.
Sự trục lợi thâm dày vô cảm và vô tận như thế đã làm nên một hình tượng quá cay độc từ năm 2011. Vào quý cuối của năm đó, những tay phản biện độc lập can đảm nhất trong công luận đất nước đã phải kêu lên “Nhóm lợi ích ngân hàng đang bắt toàn bộ doanh nghiệp, nền kinh tế và người dân làm con tin của nó”.
Bởi Tết năm 2012 đã chứng nghiệm cho chân lý này: ít nhất 55.000 doanh nghiệp phải phá sản và ngừng hoạt động; hàng chục ngàn công nhân không có tiền mua vé tàu về quê. Các đô thị tràn ngập sắc thái sầu muộn… Trong khi đó, giới ngân hàng vẫn ung dung thưởng Tết với mức bình quân lên đến 40-50 triệu đồng cho mỗi nhân viên, còn giới chủ gấp mười lần như thế.
Sát Tết năm sau đó, nền kinh tế lại được báo cáo của Chính phủ và giới chuyên gia cận thần tô hồng về triển vọng “thoát đáy”. Một quan chức tuyên giáo còn nói như chưa bao giờ được nói “Chưa bao giờ người dân Việt Nam ấm no như bây giờ”.
Trong khi đó, tình cảnh đón Tết của công nhân lao động trở nên thê thảm hơn cả Tết năm trước. Bắt đầu xuất hiện cảnh thưởng Tết bằng tất cả những gì tồn kho trong doanh nghiệp như hạt dưa, quần đùi…, và cả gạch cùng tương ớt.
Mãi lực thị trường đã liên tục đi xuống trong những năm qua. Bất chấp báo cáo về “thị trường đang phục hồi sức mua” của Bộ Công thương và Bộ Kế hoạch và đầu tư, các siêu thị lớn nhất vẫn phải cay đắng thừa nhận sức bán của họ đã giảm đi một nửa qua từng năm. Chợ búa những ngày sát Tết vắng tanh, không khác gì những ngày thường lặng gió. Chưa bao giờ hàng đại hạ giá từ 50% đến 80% xuống đường nhiều đến thế.
Vài chuyên gia trong hệ thống nhà nước ước tính tỷ lệ vòng quay vốn xã hội trong năm 2012 đã chỉ còn 0,8 lần so với hơn 2 lần vào thời hoàng kim năm 2007. Còn vào năm 2013, không hiểu do ẩn ý gì mà đã hầu như biến mất con số ước đoán này.
Cùng lúc, giới chuyên gia phản biện độc lập lại cho rằng việc sụt giảm đến 60% của vòng quay vốn xã hội như vậy vẫn còn là một cách nói khiên tốn. Bởi chỉ cần tính sức mua giảm đều 30% qua từng năm kể tử năm 2011, thì sau 3 năm suy thoái, vòng quay vốn xã hội phải giảm đến ít nhất 70%. Tất cả tình cảnh đó là khá tương đương với khung cảnh thời đại suy thoái của nước Mỹ vào những năm 1929-1932.
Còn báo chí, bị nén chặt trong một tâm thế lò xo ép, chỉ dám buột miệng “Dân kiệt sức cả rồi…”.
Ánh mắt vô hồn
Năm 2013 cũng là cao trào chưa hề kết thúc của rất nhiều cái chết vì nghèo khó. Từ Bắc chí Nam, người dân phải chứng kiến không biết bao nhiêu vụ nhảy cầu, uống thuốc trừ sâu, dùng xăng tự quyết… Những cái chết tập thể của ba mẹ con ở tỉnh nọ đã làm rúng động tận tâm can những người còn lương tri sót lại.Nhưng bỏ mặc mọi khốn khó nhiễu nhương như thế, triết lý có giá trị đương đại nhất vẫn là “phong bì không chứa nổi tiền hối lộ”. Hình ảnh phổ cập khó có thể bi tráng hơn là những chiếc cặp Samsonite đầy ngoại tệ với giá chót một triệu USD – được minh họa tối thiểu bằng khối lượng 5 kg mà ông chủ Vinalines khai đã tuồn cho Thứ trưởng Công an Phạm Quý Ngọ.
Lồng trong bối cảnh hiện hình chủ nghĩa tư bản dã man từ ba thế kỷ trước, xã hội Việt Nam lại đang nổi lên làn sóng phẫn uất ngày càng bất khuất của nhiều tầng lớp nông dân và công nhân. Thu hồi đất vô lối và bất hợp pháp, ô nhiễm môi trường, điều kiện làm việc khắc nghiệt…, chưa kể đến nguy biến suy sụp kinh tế đang khiến giới đảng viên hồi hưu phải nhận thức lại điều được gọi là “kiên định ý thức hệ cộng sản”.
Một trong những bằng chứng rõ rệt nhất cho tình trạng ngân sách có nhiều dấu hiệu cạn kiện là nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm xã hội và cả quỹ lương hưu. Chẳng cần theo dự đoán đến năm 2030 mới vỡ, chỉ mới đến giữa tháng Giêng năm 2014, nhiều cơ quan vẫn chưa có tiền để trả cho cán bộ nhân viên. Tại Sài Gòn, một số cán bộ hưu trí đã phải đến tận trụ sở ủy ban nhân dân thành phố để kêu cứu.
Đó cũng là bối cảnh mà lần đầu tiên, những quan chức có trách nhiệm của nhà nước như bộ trưởng kế hoạch đầu tư Bùi Quang Vinh phải thốt lên từ “vỡ nợ”, còn giới chuyên gia nhà nước như các ông Võ Trí Thành, Trần Đình Thiên đã không còn quá ngần ngại khi ám chỉ về tương lai “đổ vỡ” của ngân hàng.
"Ánh mắt vô hồn vô vọng của một em bé ăn xin lang thang trên hè phố Sài Gòn những ngày lạnh lẽo giáp Tết năm 2014 có lẽ cũng đủ để khoát tả toàn diện cái tương lai của “nhà nước kiến tạo phát triển” trong thông điệp đầu năm nay của thủ tướng Việt Nam."
Cùng với một dự thảo về tình trạng phá sản ngân hàng được nêu ra bởi Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào đầu năm 2014, có lẽ không ai dám chắc là giới ngân hàng sẽ bằng an tuyệt đối vào cuối năm nay, khi ít nhất 500.000 tỷ đồng nợ xấu sẽ hiện hình không phương cứu chữa.
Một cơn động kinh suy thoái kép đang chực chờ. Khi đó, tỷ lệ thất nghiệp có lẽ sẽ không thể kém thua tính trạng 26% và 27% của Tây Ban Nha và Hy Lạp hiện thời.
Thế nhưng điều không thể hiểu nỗi là nhiều số liệu thống kê năm 2013 cũng nằm trong tình trạng không thể suy thoái hơn. Trong khi vào đầu năm 2013, chính Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã phải lên tiếng chính thức về chẵn 100.000 doanh nghiệp phải giải thể và phá sản - chiếm gần 20% số doanh nghiệp đăng ký trên cả nước, thì đến cuối năm 2013, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội vẫn kiên định với báo cáo tỷ lệ thất nghiệp toàn quốc chỉ khoảng 2%.
Trong trường hợp này, khoảng cách giữa dối trá và chân thật đã lên đến hàng chục lần.
Rõ là cái thành tích bất minh như thế của các bộ ngành chức năng đã trực tiếp ngược chiều với lời trần tình “yêu trung thực, ghét giả dối” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi ông mới nhậm chức vào năm 2006.
Ánh mắt vô hồn vô vọng của một em bé ăn xin lang thang trên hè phố Sài Gòn những ngày lạnh lẽo giáp Tết năm 2014 có lẽ cũng đủ để khoát tả toàn diện cái tương lai của “nhà nước kiến tạo phát triển” trong thông điệp đầu năm nay của thủ tướng Việt Nam.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của cây bút tự do Phạm Chí Dũng từ TPHCM.
==============================================
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng: Kinh tế Việt Nam kiệt quệ Tết Giáp Ngọ
Kho cá chuẩn bị bán trong dịp Tết Giáp Ngọ 2014 tại làng Đại Hoàng, ngoại thành Hà Nội. Ảnh chụp ngày 06/01/2014.
REUTERS/Kham
Chỉ còn không đầy hai tuần nữa là đến dịp Tết nguyên đán,
nhưng theo những tin tức từ Việt Nam, thì không khí những ngày cận Tết
không hề háo hức như những năm trước đây. Nhân dịp này RFI Việt ngữ đã
trao đổi về tình hình kinh tế với Tiến sĩ Phạm Chí Dũng ở Thành phố Hồ
Chí Minh.
RFI : Thân chào Tiến sĩ Phạm Chí Dũng. Thưa anh, theo như báo chí trong nước, thì không khí đón Tết Giáp Ngọ 2014 có vẻ u ám hơn những năm trước, thậm chí còn có việc đến mười mấy tỉnh phải xin chính quyền trung ương cấp gạo để cứu đói ?
Tiến sĩ Phạm Chí Dũng : Đây có thể nói là hiện tượng lần đầu tiên xảy ra, từ thời mở cửa năm 1990 đến nay chưa bao giờ có chuyện đó. Từ những năm 1978-1980 cho đến thời giá-lương-tiền đói kém như thế, ăn khoai mì, bo bo, khoai lang cho tới nay mới có việc đồng loạt hàng chục tỉnh xin cứu đói bằng gạo như vừa rồi. Không thể tưởng tượng được !
Đó là hệ quả tất yếu của suy thoái kinh tế trong những năm vừa qua. Nhưng còn hơn cả suy thoái kinh tế, đó không phải là vấn đề thiên tai, mà trong năm 2013 người ta phải dùng một khái niệm là « nhân tai ». « Nhân tai » ở đây không phải là vấn đề thủy điện xả lũ, mà chính do con người gây ra. Những kẻ trục lợi đã tàn phá nền kinh tế đến mức độ mà cuối cùng người dân phải chịu đựng hết.
Trong khi đó chúng ta vẫn thấy - cũng như trong thế giới tư bản, ở Việt Nam có một kiểu tư bản đặc thù - có nghĩa là đang trong suy thoái, trong khủng hoảng, nhưng phân hóa xã hội vẫn lớn. Người giàu vẫn càng giàu, và độ phân cách giữa người giàu và người nghèo càng lớn, hệ số Gini của Việt Nam càng cao. Mặc dù Nhà nước đưa ra con số Gini, tức là hệ số bất bình đẳng xã hội chỉ khoảng 0,4% thôi – mà theo tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc, dưới 0,5% là an toàn.
Một điều lạ lùng và ngộ nghĩnh là cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều tương đương nhau, tức là hệ số Gini đều khoảng 0,4%. Nhưng thực ra mọi chuyện còn tồi tệ hơn nhiều. Người ta ước tính hệ số Gini của Trung Quốc và Việt Nam khoảng từ 0,6 tới 0,7%.
Điều đó dẫn tới chuyện gần như 15 tỉnh đều xin gạo, một điều chưa từng xảy ra, kể cả những tỉnh được coi là khá trù phú. Chẳng hạn như Khánh Hòa. Khánh Hòa thì có gì mà phải xin gạo chứ ? Đây là địa phương nổi trội về du lịch, và từ năm 2010-2012 và đặc biệt năm 2013, là một thị trường du lịch phát triển thuộc bậc nhất trong toàn quốc, thu hút khách Nga rất nhiều. Đặc trưng này đã đem lại cho tỉnh nguồn doanh thu và lợi nhuận khá lớn.
Nhưng vì sao Khánh Hòa phải xin cứu đói, trong khi tỉ lệ tăng trưởng GDP của tỉnh này báo cáo là 84% ? Như vậy tỉ lệ đó có thật hay không. Hay người ta tự chế ra, tự sáng tác ra tỉ lệ GDP đó ?
Thực ra vẫn có một số vùng dân tộc thiểu số ở Khánh Hòa, đặc biệt là những vùng xa như Khánh Vĩnh, Khánh Sơn – nhất là Khánh Sơn, tôi đã đi tới đó và thấy người dân tộc thiểu số sống nghèo khổ như thế nào. Có những gia đình sống trong những túp lều, và miếng đất của họ thực ra cũng chẳng trồng cấy được gì, với một đàn con lít nhít không đủ áo quần để mặc.
Và trong những ngày giá lạnh như vừa qua, đã có những người chết ở Việt Nam. Những người chết mà không được công bố, và người ta cũng chỉ phát hiện ra một trường hợp có một thanh niên nhặt ve chai ở Đà Nẵng chết vì lạnh, trong một ngôi nhà hoang ở ngay quận Hải Châu giữa thành phố Đà Nẵng.
Không khí Tết là như vậy đó ! Nó bàng bạc như vậy, và nếu không khí những năm trước gọi là nhuốm màu u ám, thì thực ra năm nay là thê thảm. Vì năm nay không còn tiền để thưởng Tết nữa. Rất nhiều doanh nghiệp đã phải lấy hàng tồn kho ra để thưởng Tết. Thường những năm trước người ta thưởng Tết bằng áo quần, nhưng năm nay thay vào đó thì có gì thưởng đó. Chẳng hạn thưởng tương ớt, gạch ngói…nói chung có gì thì lôi ra mà thưởng, kể cả giấy vệ sinh nữa !
So với những năm trước, mãi lực bán hàng năm nay lại còn tệ hơn. Hôm qua tôi có gặp một người quản lý tại một siêu thị lớn ở thành phố, anh kể cho tôi nghe thời điểm này của năm trước lượng bán hàng gấp đôi năm nay. Còn quay ra các chợ, kể cả chợ đầu mối, chưa tính những chợ nhỏ lẻ, thì không khác ngày thường bao nhiêu. Lượng người đi mua sắm thưa thớt, đặc biệt là không mua đồ đắt tiền mà chỉ mua những món đồ bình thường.
Vừa rồi có một cuộc khảo sát thăm dò của một trung tâm ở Hà Nội, cho thấy đến 76,5% số người được hỏi không có bất kỳ kế hoạch nào cho việc tiêu dùng mua sắm và đi du lịch. Người ta thắt lưng buộc bụng tới mức gần như tối thiểu. Đúng như lời báo chí nói : Dân kiệt sức rồi !
Trong khi đó 432 loại phí vẫn phí chồng phí, và vẫn đổ lên đầu dân, chưa có bất kỳ một loại phí nào được tháo gỡ. Có nghĩa là các bộ ngành nọc dân ra để thu thuế, phí. Tất cả những phí đó từ chân lên đầu còn nhiều gấp bội so với thời Pháp thuộc !
Đó là không khí Tết của năm nay, và là hệ quả tất yếu của những năm suy thoái vừa qua, do các nhóm lợi ích trục lợi đã đổ lên đầu người dân Việt Nam.
RFI : Chính phủ đã có một số biện pháp được cho là để tháo gỡ, chẳng hạn về tình trạng bất động sản đóng băng có gói cứu trợ 30.000 tỉ đồng, nhưng như vậy theo anh không có tác dụng ?
Gói cứu trợ 30.000 tỉ hầu như đã thất bại, tính đến thời điểm này. Và tôi nghĩ cũng sẽ là một tương lai thất bại cho cả năm 2014 nữa. Vì tới nay sau sáu tháng triển khai gói kích thích 30.000 tỉ đồng, chỉ mới giải ngân được khoảng 2%. Con số trong báo cáo đưa ra là hơn 700 tỉ đồng nhưng thực chất số giải ngân cho tới thời điểm này, một số nơi đã tính là chỉ có hơn 600 tỉ đồng mà thôi. Mà trong sáu tháng, như vậy là quá ít.
Trước đây theo kế hoạch người ta dự kiến gói 30.000 tỉ đồng này tung ra là hết ngay, và có thể giải quyết trong vòng một năm. Vậy muốn tiêu thụ gói 30.000 tỉ đồng này phải mất mười năm, hoặc mười lăm năm. Một con số quá xa vời ! Trong khi đó thị trường bất động sản chỉ cần một vài năm nữa, với tình trạng như thế này, hoàn toàn có thể sụp đổ.
Đúng là bất động sản bây giờ là mấu chốt của toàn bộ các vấn đề, là trung tâm điểm của toàn bộ các thị trường. Muốn giải quyết được vấn đề mãi lực và vòng quay vốn xã hội của Việt Nam hiện nay, thì phải giải quyết tình hình bất động sản.
Trong những năm vừa rồi, sức mua và vòng quay vốn xã hội đã giảm đi : từ hơn hai lần vào thời điểm hoàng kim của những năm 2007, đầu 2008 chỉ còn có 0,8 lần vào năm 2012 mà thôi. Nhưng thực ra có một số đánh giá trong giới chuyên gia độc lập như thế này : cứ mỗi năm bình quân các chỉ số trên giảm đi 30%. Từ đầu năm 2011 đến nay, sau gần bốn năm suy thoái thì mãi lực, vòng quay vốn xã hội đã giảm đi 70 đến 75%, vậy bây giờ chỉ còn 25 đến 30% mà thôi. Đó là một con số hợp lý.
Điều đó cũng được chứng minh như thế này. Cuối năm 2011 Nhà nước còn tung ra một số tiền dành cho các ngân hàng thương mại cổ phần – tôi nhớ lúc đó là 18.000 tỉ đồng. Đến cuối năm 2012, con số đó rút lại chỉ còn khoảng 11 đến 12.000 tỉ đồng. Nhưng vào cuối năm 2013, nghe nói đâu khoảng 4 đến 5 hay 6.000 tỉ đồng mà thôi. Nói chung là không công bố, mà nếu có công bố thì số tiền cũng rất hạn hẹp, ít ỏi.
Như vậy cho thấy tình hình ngân sách rất khó khăn, và thị trường bất động sản vẫn chưa giải quyết được. Mà nếu không giải quyết được thị trường bất động sản, không giải quyết được gói kích thích 30.000 tỉ đồng, thì sẽ không giải quyết được nợ xấu bất động sản. Do vậy sẽ không giải quyết được toàn cục số nợ xấu đang tồn tại trong thể chế ngân hàng ở Việt Nam.
Hiện nay các ngân hàng đã kêu rên rất nhiều rồi. Và như người ta thường bình luận, khi mà các ngân hàng phải kêu thét lên, thì lúc đó nền kinh tế bi kịch, thị trường tín dụng bi kịch ! Và thật sự đang bi kịch !
Mới đầu năm 2014, cùng với thông điệp chào mừng năm mới và mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đồng thời Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng đưa ra ngay một dự thảo bổ sung Luật phá sản – một chế định cho phép phá sản những tổ chức tín dụng. Đây là lần đầu tiên Nhà nước phải nhìn nhận là những tổ chức tín dụng như ngân hàng có khả năng phải phá sản, giải thể, phải ngừng hoạt động.
Nói cách khác, người ta đã nhìn ra một tương lai – có lẽ là không xa xôi nữa – sẽ có một số tổ chức tín dụng trong đó có những ngân hàng, phải phá sản. Có thể là những ngân hàng nhỏ hoặc trung, thậm chí những ngân hàng lớn như Agribank – Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Đó là ngân hàng vừa qua trở thành quán quân về ngân hàng có số lượng giám đốc chi nhánh, những cán bộ phụ trách tài chính, tín dụng bị bắt nhiều nhất ở Việt Nam.
Cho nên tình hình kinh tế Việt Nam cho dù có giải quyết được một phần thị trường bất động sản, cũng không khá được. Huống chi cho đến nay thị trường này vẫn đóng băng cứng ngắc, không có một chuyển biến nào cả.
RFI : Anh vừa nhắc tới lãnh vực ngân hàng. Hiện này tòa án đang xử một vụ được gọi là đại án, lừa đảo đến mấy ngàn tỉ đồng nhưng ngân hàng liên quan nhất định không chịu nhận trách nhiệm. Như vậy ngay cả ngân hàng bây giờ người dân cũng không thể tin tưởng được ?
Hôm qua tôi đọc một tờ báo, chính là tờ Tiền Phong. Tờ báo đã phải đặt tiêu đề thế này : « Làm sao có thể tin cậy được ngân hàng ? », « Người gởi tiền bất an ». Họ đã phải gióng lên tiếng nói đó. Trước đây không mấy báo chí dám nói tới điều ấy. Vì đây là một lãnh vực được coi là nhạy cảm, được coi là cấm kỵ. Luôn luôn được Ban tuyên giáo trung ương kềm tỏa đối với báo chí, đặc biệt thận trọng trong việc đưa tin về ngân hàng, sợ đổ bể hệ thống tài chính tín dụng Việt Nam.
Nhưng còn bây giờ tình hình xấu quá rồi ! Mới đầu năm 2014, chính Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang Vinh đã phải thừa nhận là hệ thống tín dụng và ngân hàng ở Việt Nam đang có nhiều vấn đề. Và với tình hình nợ công và nợ xấu như hiện nay, có khả năng là Việt Nam sẽ vỡ nợ !
Trước đó chính ông Vũ Đình Ánh là một chuyên gia của Nhà nước, cũng phải thừa nhận là không trả một tỉ đô la thì Nhà nước Việt Nam sẽ vỡ nợ, và trong những năm tới không nhìn thấy một nguồn thu nào để trả nợ.
Vấn đề ngân hàng Việt Nam hiện nay rất lớn. So với hệ thống ngân hàng nước ngoài, ngân hàng Việt Nam quá yếu. Vừa qua chính Thông tư 02 của Ngân hàng Nhà nước - yêu cầu các ngân hàng thương mại phải phân loại nợ xấu và thiết lập quỹ dự phòng rủi ro - đã bị các ngân hàng phản ứng rầm rộ.
Họ cho là nếu áp dụng thông tư này thì rõ ràng họ không đủ khả năng để phân loại nợ xấu và thanh toán cho khách hàng. Có nghĩa là họ phải rút bớt một phần vốn lưu động để trích lập dự phòng rủi ro – bớt nguồn vốn lưu động thì sẽ ảnh hưởng đến vốn cho vay. Đồng thời thậm chí họ còn phải rút cả một phần vốn từ tiền gửi của khách hàng.
Chúng ta quay trở lại vấn đề Vietinbank và vụ án Huỳnh Thị Huyền Như với 4.000 tỉ đồng, cả một sự kinh khủng như vậy ! Đây là một vụ án đặc trưng, cho thấy sự lỏng lẻo của các ngân hàng trong việc quản lý tài chính tín dụng, các khoản thế chấp cho vay.
Từ cuối năm 2011, chính Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia là một cơ quan tư vấn trực thuộc chính phủ, đã có một báo cáo. Tôi đọc báo cáo đó thấy rất thú vị, nêu ra khoảng gần hai chục ngân hàng với các tỉ lệ nợ xấu cụ thể lên tới mười mấy phần trăm. Trong khi lúc đó Ngân hàng Nhà nước mới chỉ thống kê là nợ xấu của hệ thống ngân hàng chỉ khoảng 3% mà thôi. Và ngay lúc ấy tổ chức xếp hạng quốc tế là Fitch Rating cũng đã đánh giá thực chất nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam vào thời điểm giữa năm 2011 lên tới 13%, chứ không phải là 3% như Ngân hàng Nhà nước báo cáo.
Có nghĩa là vào cuối năm 2011, tình hình đã thê thảm rồi, đã khó khăn lắm rồi. Nhưng người ta vẫn cố giấu nhẹm tất cả những gì có thể giấu được vào trong chăn. Và ở trong chăn người ta thấy những con rận, nhưng những con rận, con rệp ấy chưa có chui ra.
Vô hình chung, bản báo cáo chi tiết hơn 100 trang của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia cũng biến mất. Không biết bị mất ở đâu, nhưng đưa lên bàn của chính phủ, đưa lên bàn của các bộ, ngành liên quan cũng đều mất ! Và không có bất kỳ thông tin nào trong bản báo cáo này được tung ra ngoài công luận.
Chúng ta không biết về các thói hư tật xấu của ngân hàng, về các nhóm lợi ích của ngân hàng, và về nợ xấu ngân hàng. Nhưng sau đó thì vấn đề Vietinbank, Huỳnh Thị Huyền Như bắt đầu lộ ra từ sự suy sụp của thị trường chứng khoán năm 2011 và 2012.
Nếu như thị trường chứng khoán Việt Nam không đổ vỡ thì khó có việc lộ ra Huỳnh Thị Huyền Như hoặc những nhân vật khác trong vụ vay mượn. Sự đổ vỡ chứng khoán đã làm lộ ra tất cả những vấn đề tay trong, những cú đi đêm, những hợp đồng ma, những vụ án như Huỳnh Thị Huyền Như và những con số khổng lồ 4.000 tỉ đồng
RFI : Theo anh thì tình trạng này đặt ra những vấn đề gì ?
Câu hỏi cần đặt ra ở đây là ngân hàng đã quản lý như thế nào, và ngân hàng có thừa nhận trách nhiệm của mình trong việc quản lý hay không. Hơn nữa, tính chất sở hữu chéo đầy ngộp giữa các ngân hàng với nhau đã làm cho các ngân hàng trở nên vô cùng khó xử, dẫn đến một sợi dây liên đới có thể tạo ra domino đổ vỡ, nếu tiếp tục xảy ra những vụ án như Huỳnh Thị Huyền Như bây giờ.
Một câu hỏi nữa là tại sao Vietinbank lại phủi tay trách nhiệm trong vụ án. Thật ra bây giờ các ngân hàng đang đi đòi nợ lẫn nhau. Ngân hàng ACB đòi nợ Vietinbank, thì Vietinbank có trả hay không ? Tại sao ban lãnh đạo của Vietinbank lại đổ toàn bộ cho Huỳnh Thị Huyền Như mà không thừa nhận một trách nhiệm nào ? Và câu hỏi lớn ở trên nữa, là tại sao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cùng Thống đốc Nguyễn Văn Bình có vẻ như là không liên đới chịu trách nhiệm trong việc quản lý những ngân hàng như Vietinbank, để xảy ra những vụ án như Huỳnh Thị Huyền Như ?
Như vậy cuối cùng chúng ta trở lại vấn đề như tôi đã đề cập là bài báo của Tiền Phong hay những tờ báo khác : người dân cảm thấy bất an khi gởi tiền vào ngân hàng. Cho dù gần đây chính Thống đốc Nguyễn Văn Bình của Ngân hàng Nhà nước đã phải kêu gọi người dân gởi tiền vào ngân hàng, vì đó vẫn là một kênh an toàn và hiệu quả trong năm 2014.
Nhưng với những ngân hàng Việt Nam mang tính chất sở hữu chéo như thế này, xảy ra những vụ án khủng khiếp như vậy - mà thật ra họ không thể minh bạch được số tiền người dân gởi, và việc thanh toán, quyết toán lẫn nhau – thì làm sao người dân có thể an tâm mà gởi vào được ?
Từ đó dẫn tới việc chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan trong năm 2014 và những năm tới cố gắng huy động vàng từ dân. Người dân mà đã ngại gởi tiền vào hệ thống ngân hàng, thì làm sao có thể yên tâm mà rút vàng từ những nơi cất giấu, chôn giấu tại các ngõ ngách trong nhà, để gởi vào két sắt của Ngân hàng Nhà nước hoặc các ngân hàng thương mại cổ phần. Làm sao mà yên tâm, lỡ số vàng, số tiền đó mất đi thì sao ! Lỡ khủng hoảng ngân hàng, đổ vỡ ngân hàng, giống như bài học nhãn tiền vào năm 1997.
Trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á- Thái Bình Dương, một số ngân hàng thương mại nước ngoài - kể cả HSBC, đã đầu tư quá nhiều vào bất động sản, và sau đó họ không có tiền để trả cho khách hàng nữa. Đối với các ngân hàng thương mại ở Việt Nam bây giờ cũng vậy. Họ ôm quá nhiều tài sản thế chấp bất động sản. Đến một lúc nào đó họ sẽ không còn tiền mặt để trả cho cho khách nữa. Lúc đó ai sẽ chịu trách nhiệm về vấn đề này ?
Chính vì thế, giữa chuyện được coi là nhỏ là ngân hàng Vietinbank và vụ án Huỳnh Thị Huyền Như, với cả một cái lỗi hệ thống trong hệ thống ngân hàng hiện nay, đó là mối liên hệ móc xích liên đới với nhau. Nó cho thấy nếu không giải quyết được bài toán này, thì nhiều khả năng là đến giữa năm 2014 - khi các ngân hàng thương mại không được quyền tái cơ cấu nợ nữa, không được quyền đảo nợ nữa, và nợ xấu bắt đầu lộ diện, bóc ra từng mảng, từng lớp - các ngân hàng bắt đầu kêu thét lên. Lúc đó nhiều khả năng là có những ngân hàng phải ra đi đầu tiên, kể cả những ngân hàng bậc trung như tôi đã đề cập đến, chẳng hạn như ngân hàng Agribank.
RFI : Thưa anh trong tình cảnh Việt Nam có nguy cơ vỡ nợ như anh nói, ngân hàng không được người dân tin cậy nữa thì sẽ không huy động được tiền, doanh nghiệp cần vốn không vay được…Có vẻ là một bức tranh quá u ám, nếu không muốn nói là đen tối ?
Bây giờ tình hình rất là u ám. U ám đến mức mà chúng ta nhìn thấybóng ma khủng hoảng đang lồ lộ, đang lừng lững hiện ra, và gần như vô phương cứu chữa.
Như tôi đã đề cập, theo Thông tư 02 của Ngân hàng Nhà nước, đến tháng 6/2014 sẽ áp dụng, các ngân hàng thương mại sẽ phải trích lập quỹ dự phòng rủi ro. Để làm gì ? Để bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng thương mại một phần thôi, nhưng đồng thời phải bảo đảm thanh khoản và thanh toán cho Ngân hàng Nhà nước. Những món vay mà các ngân hàng thương mại đã vay từ Ngân hàng Nhà nước, thì phải có trách nhiệm trả lại.
Có nghĩa là đã đến tình trạng Ngân hàng Nhà nước không thể « bao sân », không thể lo lắng, quán xuyến toàn bộ cho hệ thống thanh khoản của các ngân hàng thương mại, mà phải lo cho chính mình. Có nghĩa là đã đến lúc đèn nhà ai nấy rạng, thân ai người đó lo, và đường ai người ấy đi.
Vấn đề là nếu xảy ra tình hình các ngân hàng thương mại không thể giải quyết được nợ xấu và nợ bất động sản vào giữa năm 2014 – mà thời gian từ đây tới đó chỉ còn có năm, sáu tháng mà thôi - trong khi toàn bộ hơn 100.000 căn hộ cao cấp và trung cấp từ Hà Nội tới Thành phố Hồ Chí Minh vẫn bất động hoàn toàn, thì lúc đó sẽ có những ngân hàng có khả năng vỡ nợ. Như chúng tôi đã đề cập, đã có dự thảo cho việc vỡ nợ, phá sản của ngân hàng rồi. Và một trong những ưu tiên đầu tiên của các ngân hàng phá sản là phải thanh toán trước hết cho Ngân hàng Nhà nước, chứ không phải cho người gởi.
Nếu tình hình đó xảy ra thì rất dễ thấy một triển vọng gần gũi : năm 2014 cùng với tình trạng ngân hàng bắt đầu phá sản, có thể vỡ nợ, thì nền kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ đặt một chân vào hố sâu khủng hoảng. Và bắt đầu một chu kỳ khủng hoảng, có lẽ kéo dài khoảng hai tới ba năm. Khi đó đừng nói gì tới chuyện cho vay giá rẻ như khẩu hiệu tuyên ngôn trong suốt thời gian vừa rồi đối với các doanh nghiệp sản xuất.
Vì thực ra trong suốt thời gian vừa rồi doanh nghiệp vẫn hầu như chưa tiếp cận được vốn vay giá rẻ. Cái được gọi là vốn vay giá rẻ, lãi suất thấp nhất cũng là 8 – 9%. Trước đó lên tới 13-15%, còn vào năm 2011 thì các doanh nghiệp sản xuất đã phải vay với tỉ lệ 21-23%. Còn nếu như tình hình các ngân hàng phá sản, vỡ nợ dây chuyền với nhau, lúc đó lại đua nhau huy động vốn, lãi suất tiết kiệm tăng, dẫn tới lãi suất cho vay vốn cũng tăng theo và sẽ phá sản chính sách cho vay vốn giá rẻ.
RFI : Hậu quả sẽ như thế nào theo anh, nhất là khi Việt Nam không có chế độ an sinh xã hội như các nước phát triển ?
Sẽ dẫn tới những hệ quả và hậu quả xã hội vô cùng trầm trọng. Một minh chứng là vào năm 2013 đã xuất hiện thông tin từ chính các cơ quan nhà nước, dự báo là nếu tình hình quỹ lương chi trả như thế này thì có khả năng đến năm 2030, quỹ lương hưu của Việt Nam sẽ vỡ. Có nghĩa là sẽ không còn tiền để chi trả cho những người về hưu nữa.
Nhưng tôi cho là điều đó có thể xảy ra sớm hơn. Vì thông thường sau một cuộc khủng hoảng, thì có một độ trễ từ một năm rưỡi tới hai năm quỹ lương hưu sẽ nguy ngập. Điều đó người ta đã nhìn thấy ở Liên Xô những năm 1992-1993, tức là thời kỳ hậu Liên Xô, sau cuộc khủng hoảng quỹ lương hưu đã gần đổ bể. Lúc đó giá trị lương hưu của người về hưu nhận được chỉ còn lại một phần ba cho tới một nửa giá trị thông thường trước đó mà thôi.
Ở Việt Nam cũng có thể như vậy, và những ngày gần đây nổi lên một hiện tượng như thế này. Cho đến giờ phút này, hôm nay là ngày 18, nhiều cơ quan đơn vị vẫn chưa có lương, hưu trí cũng vậy. Thông thường, từ ngày 4 tới ngày 5 hàng tháng là có lương, nhưng đến nay sát Tết rồi mà vẫn chưa có. Và đã có một số cán bộ hưu trí ở Saigon phải kéo nhau lên Ủy ban Nhân dân Thành phố để khiếu nại, kêu cứu về chuyện này – tại sao giờ này chưa có lương.
Tôi cho đó là một dấu hiệu cho thấy ngân sách nhà nước đang hết sức khó khăn, nếu không muốn nói là có hiện tượng cạn kiệt ngân sách. Vấn đề đó dẫn tới một tương lai rất nguy hiểm đối với quỹ lương hưu là, không phải chờ tới năm 2030, mà một khi nền kinh tế cực kỳ khó khăn và dợm chân vào khủng hoảng, quỹ lương hưu là một trong những nơi bị ảnh hưởng đầu tiên. Cần phải nói thẳng ra một sự thật như vậy.
Và lúc đó chính tầng lớp hưu trí, trong đó rất nhiều người là đảng viên, sẽ phản ứng. Như tôi đã đề cập, bình thường các đảng viên hưu trí không lên tiếng một cách chính thức. Người ta chỉ tụm năm tụm ba, phản ứng về những sự bất công, những chính sách bất hợp lý trong đảng, trong chính quyền. Nhưng một khi đã ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của họ, thì lúc đó họ sẽ bắt đầu lên tiếng.
Thông thường đã có nhiều người trong số đảng viên hưu trí muốn xa rời đảng Cộng sản cầm quyền hiện nay. Họ không sinh hoạt, không đóng đảng phí, và bằng cách nào đó, họ thoái đảng. Còn sau này nếu ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của họ liên quan đến quỹ hưu trí, thì – tôi cho rằng đó cũng là lẽ tất nhiên, là quy luật tự nhiên của xã hội - họ sẽ lấy điều này làm lý do hợp lý để chia tay với đảng, bỏ đảng luôn. Lúc đó sẽ sinh ra một làn sóng thoái và bỏ đảng trên diện rộng, thậm chí sâu sắc trong từng khu vực, từng địa phương, từng tế bào của quốc gia.
Đồng thời đối với những tầng lớp nhân dân khác, việc tung hoành của giá điện, xăng dầu, sữa, gaz… và những chính sách đặc quyền đặc lợi làm cho họ bất mãn vô cùng. Chỉ cần chờ khủng hoảng, thì tất cả những yếu tố đó sẽ cộng hưởng với nhau, và cùng nhấn chìm. Có nghĩa là sẽ nổ ra những làn sóng phản ứng tự phát ngoài xã hội.
Đó là những hệ quả xã hội, mà tôi cho là sẽ diễn ra ngay trong năm nay thôi. Và có một sự bất hợp lý : hệ thống điều hành quản lý kinh tế tài chính của Việt Nam quá yếu kém so với thế giới. Phải nói thẳng ra một sự thật như vậy.
Nền kinh tế Mỹ thực ra đã chạm đáy vào cuối năm 2011, bắt đầu từ năm 2012 phục hồi. Thậm chí đến năm 2014 này, theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ Quốc tế cũng như Ngân hàng Thế giới và hàng loạt tổ chức khác, đó là một năm phục hồi đáng kể, đáng khích lệ của nền kinh tế thế giới của Mỹ, của Tây Âu - kể cả của Pháp nữa. Tỉ lệ tăng trưởng của Pháp chỉ có 0,3-0,4% thôi, nhưng vẫn được coi như là tăng trưởng, chứ không đến nỗi tồi tệ như tình hình ở Việt Nam.
Trong khi đó nền kinh tế Việt Nam hầu như lệch pha với thế giới trong suốt sáu năm vừa qua. Ngay cả khi nền kinh tế thế giới tạm phục hồi hoặc bắt đầu phục hồi một cách bền vững, thì nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể tốt nhất là đi ngang mà thôi, chứ chưa có gì gọi là thoát đáy cả. Tình hình sắp tới trong năm 2014 này, nhiều khả năng nền kinh tế Việt Nam sẽ càng khó khăn, và khó khăn gấp bội.
Xin nhắc lại là khi xảy ra vấn đề bùng vỡ bong bóng tín dụng, đổ bể nợ xấu ; thì lúc đó nền kinh tế sẽ chính thức đặt chân vào giai đoạn khủng hoảng, dẫn tới khủng hoảng xã hội.
RFI : Xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Phạm Chí Dũng đã vui lòng nhận trả lời RFI Việt ngữ hôm nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét