Người Sưu Tầm – Đồng bào miền Nam VN, ai cũng biết rằng Cộng Sản chiếm được miền Nam nhờ bịp bợm và khủng bố, “mặt trận giải phóng miền Nam” không đại diện cho ai cả, chỉ là công cụ do CS dựng lên để lừa bịp dư luận trong và ngoài nước, lừa bịp ngay các thành viên của mặt trận này.
Từ “Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam” qua “Liên Minh Dân Chủ”, rồi đến “Chính Phủ Lâm Thời
Cộng Hoà Miền Nam VN” đều là những màn trình diễn bịp. Thành viên của 3
tổ chức trá hình đó đều là những tên múa rối, bị điều khiển bởi những
tên cán bộ Cộng Sản núp trong hậu trường. Các
tổ chức trá hình trên là những vở tuồng được soạn sẵn, các đào kép bị
phỉnh gạt đưa vào, phải đóng trọn vai của mình, nếu không sẽ bị thủ
tiêu.
Tuy là thành viên
của mặt trận, họ luôn luôn bị kìm kẹp (Việt Cộng gọi là bảo vệ), theo
dõi, kiểm soát chặt chẽ. Hàng ngày chúng nhồi nhét chính trị. Chúng tôi
xin tường thuật quá trình lừa bịp của Cộng Sản qua các tổ chức bịp bợm
ấy ở miền Nam do kỹ sư Hồ Văn Bửu, từng là ủy viên của chính phủ lâm
thời (ngang hàng Bộ trưởng), hồi chánh năm 1970 kể lạị Tập hồi ký này
không xuất bản, chỉ dành cho các bạn thân của ông. Tôi may mắn được đọc
bản chính tập hồi ký đó, và được phép khai thác để cống hiến độc giả.
Hiện ông kỹ sư Bửu vẫn còn trong trại tỵ nạn Thái Lan. Chúng tôi xin
trân trọng biết ơn ông Hồ Văn Bửu đã kể lại những âm mưu, những thủ đoạn
lừa bịp trong hậu trường bọn Cộng Sản ở miền Nam để độc giả thấy được
sự gian trá của chúng.
Ông Hồ Văn Bửu sinh
năm 1932 tại Biên Hòạ Thân phụ là ông Hồ Văn Tam, nhà giáo, sau khi hồi
hưu làm chủ tịch hội đồng chủ tịch tỉnh Biên Hòa 1962-1963. Năm 1948,
ông Bửu qua Pháp du học cùng chuyến tàu với Đỗ Cao Trí, lúc dó qua Pháp
học về nhảy dù. Ông vừa là bà con vừa là bạn học với cố Đại tướng Đỗ Cao
Trí. Qua Pháp, ông Bửu theo học trường Bernard Palassy ở Monpellier,
sau dó lên Paris tiếp tục học và đổ kỹ sư Canh nông năm 1958. Năm sau
ông về miền Nam được chính phủ VNCH bổ nhiệm làm phụ tá cho tiến sĩ Thái
Công Tụng đang làm trưởng bang Thổ nhưỡng Trường kỹ thuật nông nghiệp.
Kể từ năm 1964, ông thôi làm công chức ở Bộ canh nông, qua làm chuyên
viên khảo cứu cao su cho các đồn điền cao su Pháp ở miền Đông Nam phần.
Trong những năm còn là sinh viên ở Pháp, ông Bửu đã có cảm tình với VC
vì bị tổ chức Liên hiệp Việt kiều của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện tuyên
truyền. Lúc đó ở Pháp, nhiều trí thức mới tốt nghiệp như ông, còn ngây
thơ chính trị, chưa hiểu Cộng Sản là gì, đến khi có người tuyên truyền
về chủ nghĩa Cộng Sản, họ thấy tốt đẹp, nên theo, rồi bị mắc lừạ Cụ thể
có bác sĩ Trương Công Trung tức Hai Ngọ, kỹ sư Phạm Tám, kỹ sư Trần Văn
Thiện, nghe lời đường mật của Cộng Sản hồi hương về Bắc. Nguyễn Khắc
Viện vẽ ra trước mắt họ một chương trình “về phục vụ đất nước sau chiến
thắng Điện Biên Phủ” với cả một tương lai rực rỡ. Về đến Hà Nội, các trí
thức ấy được bổ nhiệm dưới quyền những tay CS bần cố nông, không biết
chuyên môn. Hàng ngày, họ bị cán bộ nhồi sọ về chính tri, kiểm thảo
thường xuyên. Vì thuộc thành phần tiểu tư sản, giới trí thức hồi hương
này không bao giờ được Đảng Cộng Sản tin cậy, cũng không bao giờ cho giữ
chức vụ chỉ huy nào cả.Ảnh ông Nguyễn Khắc Viện và vợ
Trường hợp ông Bửu
có hơi khác. Khi làm chuyên viên cho Viện khảo cứu cao su cho các đồn
điền Pháp, ông có dịp tới lui nhiều lần các đồn điền cao su nằm trong
chỗ khuất vắng của các tỉnh miền Đông Nam phần, là nơi có du kích, cán
bộ Cộng Sản núp lén hoạt động kể từ sau năm 1963. Thỉnh thoảng ông gặp
họ, nói chuyện, bị họ tuyên truyền rồi ngả theo cái gọi la “mặt trận
giải phóng miền Nam”, công cụ của Cộng Sản Bắc Việt mà ông tưởng là tổ
chức củạ..người quốc gia yêu nước, có khuynh hướng độc lập, chống lại sự
can thiệp vào nội bộ nước nhà của Mỹ. Khi đã lọt vào tay Cộng Sản rồi,
thấy mình bị mắc lừa, ông Bửu chỉ tìm cơ hội vượt thoát khỏi cái tổ chức
bịp bợm đó. Từ căn cứ của “chính phủ lâm thời” nằm sâu trên đất Miên,
ông Bửu nhờ một người dẫn đường, tìm cách trốn qua Miên, bị cầm tù một
thời gian, rồi bị trục xuất qua Làọ Ở đây ông bị điều tra mấy tháng rồi
giải giao cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Cuộc vượt thoát
khỏi nanh vuốt của bọn cộng sản phải mất sáu tháng. Sau năm 1975, ông bị
bắt cầm tù cho đến cuối năm 1980 mới được thả. Về Saigon, ông sống
không có hô khẩu suốt mười năm, tìm cách vượt biên nhiều lần nhưng thất
bại. Lần sau cùng, ông đến được trại tỵ nạn Thái Lan năm 1990. Mới đây,
nghe tin ông bị lọt sổ thanh lọc, chúng tôi thấy cách làm việc của Ban
thanh lọc người tỵ nạn ở Thái Lan rất khó hiểu. Ông Bửu là một nhân viên
cao cấp của Cộng Sản, chống đối chế độ, trở về hồi chánh, rồi trốn
thoát, bị tù đày, sau cùng vượt biên nhiều lần mới tới được bến tự do,
nhưng không được nhìn nhận tư cách tỵ nạn chính trị. Ông có đủ giấy tờ
chứng minh, hình ảnh báo chí ngoại quốc chụp khi ông công du Ấn Độ tố
cáo chế độ cộng sản, thế mà vẫn bị đánh rớt. Không biết Ban thanh lọc
đòi tiêu chuẩn của người tỵ nạn như thế nào mới gọi là hội đủ điều kiện
của người tỵ nạn chính trị ?
Phong Trào Hòa Bình, mở màn cho cuộc đấu tranh chính trị của CS ở miền Nam:
Hiệp định Geneva
1954 có điều khoản qui định rằng 2 năm sau, sẽ tổ chức một cuộc tổng
tuyển cử để thống nhất đất nước. Tại miền Nam, chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa biết rằng nếu tổ chức bầu cử, miền Bắc sẽ gian lận, và chiến thắng.
Hơn nữa, viện lẻ chính quyền quốc gia không ký tên vào Hiệp định Geneva,
nên chính phủ miền Nam tự coi mình không bị ràng buộc bởi những điều
kiện trong đó. Năm 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm thông báo cho Chủ tịch
Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến ở VN, lúc đó là Đại sứ Ấn độ
Christian Menon. Ông này vốn thiên Cộng, đã tìm cách thuyết phục chính
phủ VNCH nhiều lần nhưng thất bạị Được tin đó, Hồ Chí Minh thất vọng ra
mặt, nhưng hắn đã có chuẩn bị trước, cài nhiều cán bộ ở lại (từ
3000-5000 người) ngay khi ký Hiệp định Geneva. Bọn Cộng Sản Bắc Việt
phát động một hình thức đấu tranh chính trị mới : Đó là nguyên nhân chào
đời của cái gọi là “phong trào đòi hòa bình và dân tộc tự quyết” ở miền
Nam.
Để phát động phong
trào này, trước hết, bọn cán bộ cộng sản nằm vùng bắt đầu hoạt động bí
mật. Họ móc nối các trí thức ngây thơ, những người kháng chiến cũ đã bỏ
họ về thành sau 1954. Cụ thể là Tạ Bá Tòng, cán bộ trí vận cộng sản tự
là Năm Thới, hoạt động bí mật để tạo sự bất ổn trong dân chúng. Để mở
đầu, Tạ Bá Tòng móc nối gia đình bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến, nguyên là
Tổng ủy trưởng Di cư năm 1954, có nhiệm vụ chuyên chở người tỵ nạn từ
Bắc vô Nam ! Gia đình ông Huyến có một người con gái tên là Phạm Thị
Thanh Vân, lại có cảm tình với cộng sản. Bà ta kết hôn với ông Ngô Bá
Thành nên lấy tên chồng để hoạt động trong hàng ngũ trí thức. Qua sự
trung gian của gia đình bác sĩ Huyến, Tạ Bá Tòng tiếp xúc với nhiều trí
thức bất mãn khác ở miền Nam, nhưng cũng không ưa cộng sản. Tạ Bá Tòng
không bao giờ ra mặt. Từ trong tối, hắn chỉ thị cho bác sĩ Huyến, bà Ngô
Bá Thành đi móc nối các vị lãnh đạo tôn giáo, các nhà báo, nhà giáo có
uy tín để lập “liên hiệp hành động” chống sự can thiệp của Mỹ.
Giai đoạn này, mục
tiêu của cộng sản là phát động một phong trào của dân chúng đòi “Hòa
bình và Tự quyết”, có lúc báo chí miền Nam gọi là “Phong trào Hòa bình”.
Mục đích sâu kín bên trong là yêu cầu chính phủ Việt Nam Cộng Hòa thi
hành Hiệp định Geneva, tổ chức Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, để
“mọi người dân tự quyết lấy số phận đất nước và thể chế tương lai của
Việt Nam”. Phong trào này còn hô hào tẩy chay người Mỹ can thiệp vào nội
tình miền Nam Việt Nam. Cán bộ cộng sản chỉ đạo phong trào không bao
giờ ra mặt. Chúng núp lén để ra chỉ thị. Chúng tìm một số gương mặt trí
thức được quần chúng biết đến để lôi kéọ Những người lãnh chỉ thị của
cộng sản mời các bạn bè, thân hữu, vốn chỉ có cảm tình với nhau thôi,
đến nhà hàng Thanh Thế để ăn cơm. Tới nơi, mới biết chúng tổ chức họp
báo và ra tuyên ngôn đòi hỏi, yêu sách như đã nói trên. Phiên họp vừa
mới bắt đầu thì cảnh sát áp vào bắt đủ mặt (lời ông Bửu). Ông Bửu cũng
có dự phiên họp này nhưng đã lanh chân chạy thoát.
Hôm đó, “Buổi họp báo ngụy trang dưới hình thức buổi tiệc” có những người sau đây:– Luật sư Nguyễn Long
– Bà Ngô Bá Thành
– Bác sĩ Phạm Văn Huyến
– Kinh lý Đào Văn Nhơn
– Hoạ sĩ Đặng Văn Ký
– Kỹ sư Hồ Gia Lý
– Ký giả Cao Minh Chiếm
– Giáo sư Đại học Văn khoa : Tôn Thất Dương Kỵ…
Sau đó họ bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đưa ra tòa xét xử. Những người trong Ban Chấp hành bị 5 năm tù, những người bị mời ăn tiệc, chỉ mới ký tên bị 6 tháng tù ở. Luật sư Nguyễn Long trong Ban chấp hành bị 5 năm tù.
Ít lâu sau, chính
phủ Ngô Đình Diệm nhất định đưa 3 ông : Bác sĩ Phạm Văn Huyến, Giáo sư
Tôn Thất Dương Kỵ và nhà báo Cao Minh Chiếm được gọi là “3 ông hòa bình”
trục xuất ra Bắc qua ngã cầu Hiền Lương.
Khi hay tin “ba ông
hòa bình” bị áp giải qua cầu Hiền Lương, Việt Cộng đã tổ chức một cuộc
mít-tinh để đón tiếp và tuyên truyền. Đây cũng là một cuộc đấu tranh
chính trị giữa hai miền Nam Bắc. Khi “Các ông hòa bình” được cảnh sát
miền Nam dẫn độ ra đến sông Bến Hải, có khuyên các ông một lần chót nên
xin ở lại để được khoan hồng, nhưng các ông đã lở leo lên lưng cọp rồi,
khó xuống được. Cây cầu Hiền Lương lúc đó sơn hai màu khác nhau: phân
nửa phía bên cộng sản sơn màu đỏ, phân nửa bên Việt Nam Cộng Hòa sơn màu
xanh. Khi ba ông hòa bình vừa bước qua ranh giới phân chia Nam Bắc,
công an Việt Cộng chạy tới tiếp dón, giành các túi xách của ba ông để ba
ông rảnh tay đến dự cuộc mít-tinh do cộng sản tập trung dân chúng ở
huyện Vĩnh Linh đến để tuyên truyền. Cuộc mít-tinh này gọi là dân chúng
tự động họp mít-tinh chào mừng ba nhà trí thức yêu nước của miền Nam. Về
sau, thân nhân của một trong ba vị ấy (xin giấu tên) nói rằng khi trở
lại lấy túi đồ, thì túi đồ đã bị lục soát, bị mất đi mấy bộ đồ mới.
Ba ông hòa bình được phái đoàn miền Bắc đón tiếp ở cầu Hiền Lương, sông Bến Hải . Bác sĩ Phạm Văn Huyến mang số 1, Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ mang số 2, ký giả Cao Minh Chiếm mang số 3
Sau đó, ba ông hòa
bình được dẫn đi thăm viếng các xí nghiệp, nông trường và hợp tác xã ở
miền Bắc để tuyên truyền cho chính sách đoàn kết chiến đấu của Việt
Cộng. Số phận của ba nhà trí thức miền Nam này ra sao?
Hết gia đoạn tuyên
truyền rồi, cả ba ông được đưa sang Cam-bốt để tiếp tục làm công tác
đánh lừa dư luận dân chúng hải ngoại với đường lối mới, đòi “trung lập
hóa miền Nam theo chủ trương của Tổng Thống De Gaulle là trung lập hóa
toàn thể Đông Dương”. Trái lại, lúc này quốc trưởng Sihanouk không đồng ý
sự có mặt của ba ông hòa bình trên xứ Chùa Tháp, nên ra lịnh cho cảnh
sát mời ba ông đến yêu cầu rời khỏi lãnh thổ Cam-bốt lúc nào thuận tiện
nhất. Họ khuyên ba ông làm đơn lên quốc trưởng Sihanouk, để xin đi bất
cứ nơi nào cũng được. Riêng một mình giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ làm đơn
xin ra Bắc, được bố trí làm Tổng thư ký Mặt Trận Liên Minh Dân Chủ của
luật sư Trịnh Đình Thảo sau này. Đó là chức vụ hữu danh vô thực, khiến
ông chán nản, và bất mãn từ đó. Còn hai ông Phạm Văn Huyến và Cao Minh
Chiếm thì xin qua Pháp, không bị Việt Cộng lợi dụng nữa.
“Phong trào hòa
bình và Tự quyết” của CS bị thất bại. Nó tạm lắng dịu một thời gian chờ
cơ hội khác tái sinh dưới một tổ chức khác để rù quến những con mồi ngây
thơ khác, đó là Liên Minh Dân Chủ của luật sư Trịnh Đình Thảo.
Liên Minh Dân Chủ của luật sư Trịnh Đình Thảo:
Chế độ Ngô Đình
Diệm miền Nam sụp đổ là một nguy cơ cho đất nước. Thời kỳ sau cuộc đảo
chánh 1/11/1963, miền Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng lãnh đạo trầm
trọng, khủng hoảng về đường lối chiến tranh (quốc sách Ấp Chiến Lược
đang có hiệu quả, nhưng vì mặc cảm với chế độ củ, nên bãi bỏ để lập Ấp
Đời Mới, Ấp Tân Sinh, đó chỉ là các hình thức vá víu tạm bợ). Chế độ mới
chỉ lo thỏa mãn tham vọng của mình và lo trả thù những quân nhân, công
chức có liên hệ với chế độ cũ, làm thiệt hại đến tiềm năng chiến đấu
chống cộng sản.
Tất cả những điều
đó tạo ra sự bất ổn chính trị, chia rẽ và CS liền khai thác triệt để.
Chúng đưa cán bộ xâm nhập vào dân chúng miền Nam để tuyên truyền, móc
nối với các thành phần trí thức, tôn giáọ Nhiều trí thức trong “Phong
Trào Hoà Bình” lúc trước đã mãn hạn tù. Họ bất mãn chính phủ VNCH. Khi
CS chủ trương mở ra mặt trận tranh đấu mới thì họ sẵn sàng tham gia, đó
là “Liên Minh Dân Chủ” của luật sư Trịnh Đình Thảọ Lúc này Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam đã chào đời, nhưng chỉ đóng trong rừng. Cục R và mặt
trận này cứ dời đổi địa điểm tới lui 2 bên con sông nhỏ, làm ranh giới
giữa Tây Ninh và Kampuchea. MTGPMN ra đời mấy năm nhưng tỏ ra không hữu
hiệu, nên họ mới dựng ra cái gọi là “Liên Minh Dân Chủ”, để lôi cuốn trí
thức tranh đấu ngay trong vùng chính phủ VNCH kiểm soát. Trịnh Đình
Thảo là người miền bắc, sinh trong một gia đình có tiếng tăm, cả thảy
bốn anh em, đều đổ đạt, hay giữ chức vụ quan trọng trong chính quyền
Pháp thuộc. Người anh cả là Trịnh Đình Huyến, tốt nghiệp Trường Canh
nông Hà Nội, là đốc công ở Bạc Liêu, người anh kế tốt nghiệp Trường Công
chánh, và người em gái út gã cho một luật sư ở Hà Nội. Ông Thảo tốt
nghiệp tiến sĩ Luật khoa bên Pháp, về mở văn phòng luật sư ở Saigon.
Buổi họp đầu tiên của Liên Minh Dân Chủ vào tháng 1/1964 tổ chức tại
nhà ông Kinh lý Đào Văn Nhơn, đường Hàn Thuyên, thẳng góc với Dinh Độc
Lập. Lời ông Bửu:
“Trước ngày họp,
tôi được tiếp xúc với một cán bộ VC tên Tư Đen mời tôi tới làm thư ký
cho Liên Minh đó. Phản ứng đầu tiên của tôi là từ chối, vì lẽ tôi đang ở
trong tuổi động viên, đi lính VNCH. Tư Đen lý luận rằng, “Trong số thư
ký đó, cũng có Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung (giáo sư Đại học Văn
khoa) cũng ở lớp tuổi của anh có sao đâu!” Tôi suy nghĩ một lúc rồi cũng
nghe theo lời của anh ta, để rồi hôm sau tôi đến chỗ họp.
Tại nhà ông kinh lý
Đào Văn Nhơn, vào lúc 16 giờ, có mặt gần như đông đủ hết các trí thức
được mời. Kế tiếp, thẩm phán Trần Thúc Linh, thuyết trình mục đích và
yêu cầu việc thành lập Liên Minh Dân Chủ. Sau khi Trần Thúc Linh kêu gọi
anh em đóng góp ý kiến, thì giáo sư Lý Chánh Trung mới đặt vấn đề:
- Người ta mời tôi
vào một tổ chức quốc gia mà trong chương trình hành động không có đề cập
đến vân đề chống CS, thì vô tình chúng ta sẽ bị chánh quyền chụp mũ
rằng chúng ta hoạt động có lợi cho CS thì sao?
Chỉ một mình Trần Thúc Linh trả lời rằng:
- Chúng ta là những người dân không bị CS cai trị. Chúng ta không có cơ sở nào nêu lên vấn đề chống Cộng.
Cuộc họp gây cấn
sắp đổ vỡ. Đến giai đoạn bầu ban chấp hành, thì ông Kha Văn Dưỡng, dân
biểu khóa I của VNCH được bầu làm chủ tịch.
Các chức vụ khác như sau :
– Phó chủ tịch : Luật sư Trịnh Đình Thảo.– Tổng thư ký : Trần Thúc Linh.
– Phó Tổng thư ký
– Ủy viên : Bà Ngô Bá Thành, Nhà văn Thanh Nghị, Thiếu Sơn…
Bà Ngô Bá Thành,
trong một cuốn phim do ký giả Pháp quay ngày 15-5-1975, lúc bà đứng xem
cuộc diễn binh mừng chiến thắng của phe cách mạng
Sau cuộc họp, chủ
nhà mới ăn tiệc thì tôi được rỉ tai rằng :”Chỉ làm biên bản đưa về Cục
R, chứ không đứng tên, tức là VC có âm mưu sử dụng tôi (Hồ Văn Bửu) vào
việc khác”.
Chừng một tuần sau,
tôi đọc báo được biết rằng con trai của ông Kha Văn Dưỡng là Thiếu tá
quân lực VNCH (1964) viết báo đính chánh : Cha của anh được mời đi ăn
tiệc, rồi tên ông ta (Kha Văn Dưỡng) được đưa lên làm chủ tịch “Liên
Minh Dân Chủ” mà chính ông không biết. Một vài ông khác cũng viết báo
đính chính, cho nên liên minh này của VC chết ngay sau khi công bố danh
sách, và chính phủ VNCH cũng không bắt bớ ai cả.
Tuy nhiên qua hành
động quá lộ liễu của ông Trần Thúc Linh, hoạt động chống phá VNCH mà
chính quyền không đủ chứng lý để bắt ông ta. Vào một ngày nào đó của năm
1967, con trai ông đang học năm thứ hai trường Đại học Y khoa Saigon,
bị hai thanh niên lực lưỡng từ bên ngoài, đột nhập vào trường Y khoa,
bắt ném qua balcon từ lầu hai xuống đất. Chú sinh viên y khoa năm thứ
hai này chết ngay tại chỗ. Đó là hành động trả đủa của ông Thiệu hay ông
Kỳ gì đó (lời ông Bửu), cho nên công an VNCH khỏi mất công đi tìm thủ
phạm.
Bà Ngô Bá Thành trong một buổi biểu tình
Sau lễ an táng con trai, ông Trần Thúc Linh có đăng báo cáo phó, cám ơn các bộ trưởng và thân hào nhân sĩ đã chia buồn với gia đình ông. Vả lại, khi thấy sinh mạng bị đe dọa, Trần Thúc Linh không còn dám hoạt động cho CS nữa. Trái lại, hành động ném lựu đạn giết chết luật sư Dương Trung Tín (anh ruột bà Dương Quỳnh Hoa, theo CS) tại nhà ở Đà Lạt đã thúc đẩy bác sĩ Dương Quỳnh Hoa chạy theo VC sau cuộc Tổng công kích Mậu Thân của CS năm 1968. Luật sư Tín là người đã từng mang thư riêng của Lê Duẩn gởi cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ để móc nối ông này tham gia MTGPMN vào năm 1960.
Bà Ngô Bá Thành (nằm) tuyệt thực trong một vụ biểu tình. Một số thẩm phán của miền Nam đến xem tình trạng của bà
CS sắp đặt cuộc tiếp xúc của trí thức miền Nam và Đặc sứ lưu động Mỹ:
Cuộc tiếp xúc này
cũng là một đòn chính trị của VC, nói thẳng cho Mỹ biết thái độ của trí
thức thân Cộng miền Nam muốn đuổi Mỹ, muốn Mỹ ngưng viện trợ, rút cố
vấn, và không can thiệp vào nội bộ miền Nam. Người Mỹ cũng tò mò, họ
muốn biết quan điểm ra sao của một số trí thức không ủng hộ chính phủ
VNCH hiện hữu, mà cũng chưa ra mặt hoạt động cho CS. Liên Minh Dân Chủ
thất bại, CS xoay qua một hình thức tranh đấu khác, lợi dụng các nhà trí
thức ngây thơ về CS. Đây không phải là một phong trào, mà chỉ là một
cuộc trực diện đấu khẩu với Mỹ, do CS chủ mưu từ trong bóng tốị Họ đâu
có người trí thức. Họ chỉ lợi dụng trí thức làm công cụ để họ đạt được
mục đích mà thôị Phần này chúng tôi ghi lại lời thuật của ông Bửu.
Vào năm 1965, qua
sự sắp xếp của CS, chúng tôi một số trí thức có cảm tình với CS được đưa
đến một nhà hàng để gặp gỡ với Đặc sứ lưu động của TT Johnson. Buổi
tiệc này dược tổ chức bí mật tại một phòng trên lầu 3 nhà hàng Á đông
trong Chợ Lớn. Đúng giờ hẹn, chúng tôi đến thì ông Yamato đã có mặt một
mình trong phòng khách, đang xem báo. Qua lời giới thiệu của bà Ngô Bá
Thành, chúng tôi chào hỏi xã giao bằng tiếng Pháp. Ông Yamato mời chúng
tôi vào phòng ăn. Bửa cơm Tàu thịnh soạn được lần lượt dọn lên, không có
ai uống rượu cả, và đàm thoại tự do, không có máy ghi âm. Mục đích của
ông đại sứ này là đi nhiều nước, tiếp xúc với giới trí thức và chính
quyền sở tại để thăm dò ý kiến về việc Mỹ trực tiếp tham chiến ở VN. Ông
trò chuyện với người ngồi kế bên. Rồi ông tự động xin đổi chỗ ngồi để
tiếp chuyện với từng người một. Ông hỏi tôi :
- Ông nghĩ gì về cuộc chiến tranh hiện naỵ
Tôi đáp :
- Thưa ngài đại sứ,
cuộc chiến tranh này không thấy chiến thắng quân sự. Người Mỹ có phương
tiện hiện đại và vũ khí tối tân, nhưng không tiêu diệt được người du
kích CS. Chúng tôi đề nghị người Mỹ đình chiến để thương thuyết và rút
quân Mỹ đi thì sẽ có hòa bình. Bởi chiến tranh lâu dài chỉ gây chết chóc
cho “người dân vô tội”.
Ông ta (Yamato) nói thêm :
- Các anh có tiếp xúc với bên kia (CS) không ?
Tôi (Bửu) trả lời không .
Ông Yamato nói :
- Hãy chờ đợi vài năm nữa sẽ chấm dứt chiến tranh.
Kế đó, ông chuyển ghế để ngồi gần người khác và tôi không nghe ông hỏi gì thêm.
Chúng tôi gồm có luật sư Trịnh Đình Thảo, bà Ngô Bá Thành, thẩm phán
Đỗ Quang Huệ, thẩm phán Trần Thúc Linh, kỹ sư Trương Như Tảng, kỹ sư Hồ
Gia Lý, kỹ sư Tô Văn Cang (KN : một cán bộ cao cấp của VC; người sau này chứng nhận sự đầu hàng của Dương Văn Minh trong Dinh Độc Lập), bác sĩ Trần Văn Du, Kinh lý Đào Văn Nhơn, hoạ sĩ Đặng Văn Ký và kỹ sư Hồ Văn Bửu.Ảnh: Nguyễn Văn Lễ (bên trái), kỹ sư Tô Văn Cang (bên phải), cán bộ tình báo của Cộng Sản được cài theo sát Dương Văn Minh
Cuối cùng, ông đại
sứ Yamato mới lên tiếng cho cả bàn tiệc nghe rằng trước đây ông đã từng
di Âu Châu, sang Đông Nam Á, tiếp xúc với các chính quyên địa phương,
rồi trạm chót là VN, để gặp gỡ các trí thức VN, trước khi ông về Mỹ báo
cáo cho TT Mỹ… Tiếp đó, ông đưa ra một quyển sổ yêu cầu mỗi người ghi
tên họ, tuổi tác và nghề nghiệp của mình. Cuôi cùng ông vui vẻ đứng dậy
chia tay từng người, và chúc sức khoẻ. Ông yêu cầu mọi người kiên trì
chờ đợi ngày hoà bình sẽ đến VN không xa lắm đâu.
Cũng theo lời ông Bửu, lúc đó Mỹ chưa trực tiếp tham chiến tại VN. Vài tháng sau, Mỹ đổ quân ào ạt vào Saigon và Đà Nẵng.
Sau cuộc gặp gỡ đại
sứ Yamato thì vài tháng sau, có một số người Mỹ tìm gặp một số trí thức
VN đối lập với chính quyền VNCH. Một dịp tình cờ, tôi đến nhà ông Trịnh
Đình Thảo ở Hạnh Thông Tây, Gò vấp, lời ông Bửu, đây là một vườn xoài
rộng 6 mẫu, ông Thảo cho xây một nhà đúc kiên cố, theo kiểu nhà khách ở
bịnh viện Cộng Hòa.
Chúng tôi ngồi uống
trà dưới bóng mát của 3 cây xoài, trên những ghế đá màị Tôi được ông
Thảo giới thiệu với một người Mỹ nói tiếng Pháp, còn tôi được gọi là kỹ
sư không xưng tên. Sau lời chào hỏi lịch sự theo xã giao Tây phương,
chúng tôi nói chuyện thoải mái với ông Mỹ này. Tôi nói :
- Nguyện vọng của chúng tôi là yêu cầu Mỹ rút quân để vấn đề chiến tranh này cho người VN giải quyết với nhau.
Người Mỹ đáp :
- Nếu quân đội Mỹ rút đi, thì CS sẽ chiếm miền Nam.
Tôi nói tiếp :
- Nếu CS có thắng
thì chúng tôi hợp tác với họ trong hòa bình, không còn bắn giết nhau
nữa, người dân Việt Nam mới sống yên ổn, sinh hoạt bình thường, không
còn lo sợ chiến tranh.
Người Mỹ này đứng dậy, lấy khăn lau mồ hôi trán, rồi chậm rãi đáp :
- Nếu CS vào Saigon, thì sẽ bắn giết lực lượng VNCH. Saigon sẽ thành biển máu lửa. VC sẽ bỏ tù hết các ông.
Tôi đáp ngày :
- Chúng tôi là dân
sự, không chống đối họ thì họ sẽ trọng dụng chúng tôi, nhất là chúng tôi
là những chuyên viên về kinh tế, kỹ thuật, có thể phục vụ cho đất nước
bất cứ lúc nào cũng được.
Ông Mỹ nói:
- Ông còn ảo tưởng
lắm! Người CS có đường lối độc tài của họ, không sử dụng người trí thức
đâụ Họ sẽ tiêu diệt giai cấp bằng cách quốc hữu hóa tài sản của người
dân, biến con người thành công cụ sản xuất, nhằm bảo vệ giai cấp lãnh
đạo của họ, được gọi là giai cấp công nhân thất học đó.
Tôi có cảm tưởng khinh thường ông Mỹ này, vì tôi cho rằng ông đi tuyên truyền chống cộng như con vẹt. Tôi đáp:
- Xin lỗi ông, tôi không tin!
Trong khi đó, trước
sự chú ý của nhà văn Thanh Nghị, Hoàng Trọng Quỳ, ký giả Hoàng Trọng
Miên, bà Ngô Bá Thành, kỹ sư Trần Văn Quyến, ký giả Thiếu Sơn, kỹ sư Hồ
Gia Lý…thì ông Thảo cắt ngang lời nói của tôi. Ông nói:
- Cháu còn trẻ nên còn hăng đấy.
Ông Mỹ cười và quay sang bà Ngô Bá Thành ngồi kế bên nói chuyện một lúc. Rồi ông nói rõ lập trường của Mỹ như sau :
- Người Mỹ sang VN
chiến đấu vì lý tưởng tự do và bảo vệ tự do cho dân tộc VN. Với tư cách
một người trí thức Mỹ, tôi tin rằng số đông trí thức VN đều có du học ở
phương Tây, sẽ hiểu biết được thực tâm của chính phủ Mỹ, để không chống
đối Mỹ tiến hành chiến tranh ở VN, nhằm ngăn chặn làn sóng sẽ do Trung
quốc đang muốn bành trướng sang VN và Đông Nam Á. Trong dịp này, CS núp
dưới chiêu bài “giải phong miền Nam”, để rồi sau khi chiếm được VNCH, họ
sẽ thôn tính luôn cả Lào và Kampuchea.
Qua cuộc tiếp xúc
này, tôi được biết ý định của Mỹ, nhưng tôi vẫn xem Mỹ là kẻ xâm lược
VNCH, vì lẽ “người dân có kêu Mỹ tham chiến đâu”! Tự nhiên người Mỹ vào
thay thế người Pháp sau Hiệp định Geneva 1954 và cai trị chế dộ VNCH
xuyên qua các chính quyền do Mỹ dựng lên. Sự có mặt của người Mỹ như chủ
nhân ông, không có chính nghĩạ Đối với lương tri con người, mặc dù
chính quyền Mỹ đã tốn rất nhiều tiền, và thanh niên Mỹ phải bỏ mạng ở
chiến trường VN. Bởi vì nếu CS xâm lược thì nhân dân miền Nam có quyền
tự vệ và đánh đuổi CS ra Bắc Việt Cũng bởi vì quốc sách Ấp Chiến Lược
của VNCH đang tỏ ra hữu hiệu thì Mỹ lại thay đổi chính sách chống Cộng!
Hoạt động của “Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam”:
Sau khi MTGPMN
không còn hữu hiệu nữa, CS giải tán để lập thành “Chính phủ Lâm thời
Cộng hòa Miền Nam VN”. Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa từ Ban Y tế qua làm Bộ
trưởng Y tế. Các ông trong Ban tuyên huấn mặt trận thì trở thành Bộ
trưởng Thông tin hay Giáo dục. Các ông già như ông Trịnh Đình Thảo, Lê
Văn Giáp, Lâm Văn Tết ra Bắc lánh nạn. Vợ chồng Thiên Giang, Trần Kim
Bảng ra Bắc để qua Đông Đức chữa bệnh. Lâm Văn Tết là kỹ sư, có chân
trong Thượng hội đồng quốc gia, thành lập sau khi lật đổ chính phủ Ngô
Đình Diệm. Tết được Trần Bạch Đằng móc nối theo CS.
Sau khi chính phủ ma này được dựng lên thì nó được lệnh của CS Bắc
Việt tổ chức đi thăm hữu nghị chính phủ Hoàng gia Kampucheạ Trong buổi
họp, đại diện chi bộ đảng là Huỳnh Tấn Phát tiết lộ cấp trên chỉ định
“chị Bảy Hồng”, tức bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, tham gia phái đoàn của chính
phủ do Huỳnh Tấn Phát cầm đầụ Trên thực tế, phái đoàn này gồm toàn thể
cán bộ cao cấp của Đảng CSVN, chỉ có 2 người của “chính phủ cách mạng
lâm thời” như kể trên. Phái đoàn được dự trù tự động đến thị xã
Swayriêng thì xe chính quyền Kampuchea đón rước đưa về Phủ Thủ tướng cho
Lon Nol tiếp đón. Sau nghi lễ tiếp đón ở Dinh thủ tướng, Lon Nol, thủ
tướng chính phủ hướng dẫn phái đoàn “chính phủ cách mạng lâm thời” đến
hoàng cung ra mắt thái tử Sihanouk và hoàng hậu Monique. Tối lại, phái
đoàn được mời dự tiệc và nghỉ đêm tại nhà khách của hoàng cung. Qua hôm
sau, Huỳnh Tấn Phát, Dương Quỳnh Hoa, Hoàng Bích Sơn và Nguyễn Văn Hiếu
được Sihanouk hướng dẫn đi tham quan các cơ sở văn hóa của kampuchea như
Chùa Vàng, Chùa Bạc và vài cơ sở kinh tế trong thành phố Nam Vang.
Trong khi đó, phái đoàn chuyên viên kinh tế giữa 2 chính phủ làm việc
với nhau.Cụ thể như VC cần mua 90,000 tấn gạo, nhưng VC ký hiệp định mua của Kampuchea 60,000 tấn thôi, vì lẽ VC cảnh giác rằng chính phủ Kampuchea có thể lật lọng thì CS sẽ ở vào thế bí. Còn 30,000 tấn gạo kia thì sẽ giữ bí mật để mua gạo chợ đen của dân chúng Miên tự động chở xuống biên giới Việt-Miên bán cho cơ quan hậu cần của VC. Qua 3 ngày viếng thăm chính thức Kampuchea, “chính phủ cách mạng lâm thời” muốn mua lòng Sihanouk, nên biếu cho Kampuchea năm hòn đảo của VN đối diện với thành phố Kép của Kampuchea . Năm hòn đảo này nguyên là chủ quyền của VNCH, có dân cư VN đang sinh sống và VC biếu không cho Kampuchea để lấy lòng Sihanouk, nhờ y cho phép chỡ vũ khí từ Kompongsom lên biên giới Việt-Miên theo giá biểu 4000-5000 riel một tấn.
Thái Tử Norodom Sihanouk bắt tay ông Trương Như Tảng, bộ trưởng Bộ Tư Pháp của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời miền Nam. Sau 1965. Sihanouk từ bỏ đường lối trung lập giữa hai khối tư bản và cộng sản mà ngả về phía Cộng sản bằng cách ký kết với Trung Quốc và miền Bắc cho phép miền Bắc đưa vũ khí vào Cam Bốt qua hải cảng Sihanoukville rồi chuyển qua biên giới Việt Miên vào miền Nam.
Nói về sự lãnh đạo
của đảng CS, thì trong phái đoàn này có Hoàng Bích Sơn của Bắc Việt là
người trực tiếp đưa ra đường lối và chủ trương của đảng, vì lẽ Sơn là
người với danh nghĩa thư ký của MTGPMN, nhưng lại lãnh đạo trực tiếp
Nguyễn Hữu Thọ trong thời kỳ chiến tranh VN. Còn tại “Phủ chủ tịch” của
“Chính phủ Cách mạng Lâm thời” thì tên Tư Dũng là Bí thư đảng đoàn của
Phủ chủ tịch, tức là lãnh dạo luôn cả Huỳnh Tấn Phát trong mọi sinh
hoạt. Còn ở Tòa Đại sứ VC ở nam Vang, thì tên Ba Dũng là Đệ nhất bí thư
Toà Đại sứ, lãnh đạo Đại sứ Nguyễn Văn Hiếu, măc dù Nguyễn Hữu Thọ,
Huỳnh Tấn Phát và Nguyễn Văn Hiếu đều là đảng viên, nhưng không thuộc
thành phần công nhân và bần cố nông vô sản, nên không được quyền lãnh
đạo theo chủ trương của Đảng CSVN. Tôi nói rõ như vậy để chứng minh rằng
CSVN không bao giờ sử dụng khả năng của người trí thức. Nếu người trí
thức đó do chế độ tư bản đào tạo mà đứng được trong hàng ngũ CS thì có 2
lẽ : một là đảng viên kỳ cựu cở Nguyễn Khắc Viện và Huỳnh Tấn Phát, đã
lỡ phóng lao thì phải theo laọ Nhưng sau này, Nguyễn Khắc Viện cũng bị
thất sủng rồi; thứ hai là các trí thức cơ hội, chế độ nào cũng hùa theo
để kiếm ăn cở Nguyễn Xuân Oánh, Nguyễn Ngọc Hà, Ngô Bá Thành, Lý Chánh
Trung,…
Sau khi kết thúc
việc viếng thăm chính thức Kampuchea, Lon Nol đích thân đưa phái đoàn
“chính phủ cách mạng lâm thời” của VC từ Nam Vang về biên giới
Việt-Miên. Tại biên giới này, nhờ con sông Saigon chia dôi 2 nước, VC
chuẩn bị sẵn xuồng để băng qua sông. (chỗ hẹp nhất phía trên đó như 1
dòng suối) ở đoạn hẹp nhất để trở lại căn cứ VC trên đất Kampuchea.
Trong dịp này, Hoàng thân Sihanouk có biếu cho “chính phủ cách mạng lâm
thời” 16 tấn khô cá, gọi là món quà hữu nghị Khmer-VN.
Tướng Lon Nol. Năm 1970, Lon Nol lật đổ Sihanouk vì không muốn Sihanouk để cho người Việt đóng quân trên đất Cam Bốt. Năm 1975, Khmer Đỏ thắng tại Cam Bốt, Lon Nol chạy sang Hawai.
Từ đất Miên băng
qua sông, tưởng là qua lãnh thổ VN cũng rất thực tế. Có lần, ký giả
Burchette, 2 giáo sư y khoa người Pháp tên là Can và Crévin và Đại sứ
Raoul Castro của Cuba từ Nam Vang đến vùng VC có nhiệm vụ gì đó, cũng bị
VC đánh lừa bằng cách cho xuống xuồng băng ngang qua sông, đi một đổi
thật xa, lên tới nguồn sông Saigon, rồi băng trở lại chỗ hẹp nhất như
băng qua suối để đi về căn cứ VC trên đất Miên mà họ tưởng rằng căn cứ
đó ở miền Nam VN. Nhờ những thủ đoạn vặt như vậy mà CS mới tuyên truyền
bịp dư luận ở ngoại quốc, và căn cứ trên đất Miên không bị tiêu diệt bởi
lực lượng VNCH. Điều đó chứng tỏ VC không thành thật ngay với cán bộ
của mình, lẫn đồng minh.
Trong một dịp trò
chuyện với bác sĩ Nguyễn Văn Thủ và bác sĩ Trần Hữu Nghiệp năm 1969 tại
“phủ chủ tịch Chính phủ cách mạng lâm thời”, hai anh này nói với tôi
rằng hai anh có nhiệm vụ đi rước khách nước ngoài kể trên tại bờ sông
biên giớị hai anh hướng dẫn khách nước ngoài lên bờ bên này, đi rất xa
nhưng khi lên ngọn suối băng trở lại thì giáo sư Crévin nói rằng, “Tôi
có cảm tưởng là tôi trở lại đất Kampuchea”. Anh bác sĩ Thủ liền đáp :
- Xa đất Kampuchea lắm rồi.
Tất cả đều cười hả hê vì đi quá xa, qua trảng thì sợ máy bay xạ kích
tự do nên cũng thắm mệt, không nhớ phương hướng gì cả. Trên thực tế, căn
cứ của Ban Dân Y chỉ nằm cách chỗ xuồng đậu 500m trên đất Kampuchea,
tức là khỏi cần qua sông cũng đi tới rất mau lẹ thôi!Tôi và anh Trương Như Tảng có đến căn cứ này dự lễ mãn khóa đào tạo 200 bác sĩ y khoa do bác sĩ Trần Hữu Nghiệp mờị Trong số sinh viên y khoa, tôi để ý một nhóm nữ sinh người Hoa, không thạo tiếng Việt mà cũng đi học. Đó cũng là đường lối chính trị lừa bịp của CS, khích lệ người Hoa tham gia mặt trận chống Mỹ. Đó là lời tiết lộ của cô Phùng Ngọc Anh, 21 tuổi, bị nhốt tại Tổng nha Cảnh sát VNCH sau khi bắn lính Mỹ bằng cả hai tay cầm hai cây súng nhỏ, giữa thành phố Saigon.
Phùng Ngọc Anh với bàn tay bị thương, lúc đang bị cảnh sát bắt giam, do nhà báo Mỹ chụp ngày 1-10-1967
Sau này tôi xem báo
biết cô ta bị kêu án 20 năm tù và bị đày ra Côn Đảọ Đến năm 1973 khi
được trao đổi tù binh, cô được đưa về Hà Nội. Lần cô bị đem thủ tiêu năm
1968 có 2 người khác nữa là Lê Thị Riêng và Trần Văn Kiểu. Cả 3 người
bị bắn ở đường Hồng Bàng, trước Trường Cây Mai. Riêng cô Phùng Ngọc Anh
đã may mắn bị đạn nhưng không chết. Trong hội nghị Paris chấm dứt chiến
tranh VN, VC tố cáo hành động này của VNCH, rồi qua lời trình bày của Đỗ
Thị Duy Liên (vợ Trần Bạch Đằng), là người đồng cảnh với Phùng Ngọc
Anh, hội nghị Paris bị VC tẩy chay một tuần lễ để phản đối VNCH. Đó là
năm 1969.
Hứa HoànhBình Luận:
Bài này được giáo
sư Hứa Hoành viết theo trí nhớ nên có thể có một số chi tiết không đúng.
Chẳng hạn vụ ba ông hòa bình được đưa ra Bắc xảy ra sau khi chế độ Ngô
Đình Diệm đã chấm dứt chứ không phải do chế độ Ngô Đình Diệm đưa ra Bắc.
Về tổng quát, bài
này nói về một số trí thức miền Nam thời đó được đảng Cộng Sản Việt Nam
lôi kéo để lập ra các tổ chức độc lập với chính quyền miền Nam, không
chủ trương chống Cộng như chính quyền miền Nam với mục đích là để phân
hóa nội bộ miền Nam, không để cho miền Nam trở thành một khối đoàn kết
nhất trí chống Cộng Sản. Vì chỉ dùng những trí thức đó với mục đích tạm
thời là phân hóa nội bộ miền Nam nên các trí thức đó có cảm tình với
đảng Cộng Sản Việt Nam đến mức nào thì không quan trọng, miễn sao họ làm
đúng theo quĩ đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam vạch ra, là lên tiếng đòi
hòa bình, không dùng vũ lực chống Cộng. Trong khi đó thì đảng Cộng Sản
Việt Nam ra sức dùng lực lượng vũ trang để tấn công miền Nam với mục
đích đánh chiếm miền Nam.
Vì chỉ dùng tạm
thời nên các trí thức đó chỉ được sử dụng khi chế độ miền Nam chưa bị
Cộng Sản chiếm. Sau 1975, nhiều trí thức trong các phong trào này sống
trong im lặng vì chế độ không cần đến họ nữa và họ cũng chẳng có quyền
lực gì trong thời gian hoạt động.
Người miền Nam cho
rằng các trí thức này bị đảng Cộng Sản Việt Nam đánh lừa, lợi dụng.
Nhưng trong số tên tuổi xuất hiện trong các phong trào đó ai là người bị
đánh lừa và ai là người đi lừa thì đến ngày nay cũng không thật sự rõ
ràng vì nhiều người vào thời đó là đảng viên, nhận chỉ thị của đảng Cộng
Sản Việt Nam để lôi kéo trí thức nhưng họ dấu tung tích của họ. Nên có
khi kẻ tưởng là bị lừa thật sự lại là kẻ đi lừa. Một số người mà dân
miền Nam thời đó tưởng chỉ là thân cộng, nghĩa là có cảm tình với Cộng
Sản, thì thật sự là đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam. Chẳng hạn, trong
số ba ông hòa bình bị chính quyền miền Nam đưa ra Bắc vào thời sau 1963
có giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ đã là đảng viên từ năm 1947 nhưng ông ta
đâu có dại gì nói ra mình là đảng viên vào thời đó mà chỉ nói mình là
trí thức chống chiến tranh, muốn hòa bình. Cũng như bà Nguyễn Thị Bình
trả lời với nhà báo ngoại quốc năm 1965 là mình không phải là đảng viên
như thật ra là bà đã gia nhập đảng Cộng Sản từ năm 1948. Ông Tôn Thất
Dương Kỵ kêu gọi dân miền Nam hãy theo đường lối hòa bình đừng cầm súng
chống lại miền Bắc trong khi đồng chí của ông thì đem toàn lực tấn công
miền Nam để đánh chiếm miền Nam. Trong số người thấy mình bị lừa có ông
Trương Như Tảng. Sau 1975, ông thấy những gì đảng Cộng Sản làm không
giống như những gì đã hứa là để miền Nam theo chế độ không cộng sản, có
nhiều thành phần chính trị tham dự, nên ông đã vượt biên, rồi sang Pháp
sống quãng đời còn lại.
Về mặt lãnh thổ, khi đảng Cộng Sản Việt Nam cần Trung Quốc viện trợ
vũ khí thì đảng Cộng Sản Việt Nam dâng Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung
Quốc. Trong bài trên, đảng Cộng Sản Việt Nam dâng cho Cam Bốt năm hòn
đảo ở gần Cam Bốt. Xem ra đảng Cộng Sản Việt Nam xem nhẹ lãnh thổ quốc
gia, khi cần ngoại bang giúp mình việc gì thì không ngần ngại cắt đất
dâng cho ngoại bang. Nói chung chính sách của đảng Cộng Sản Việt Nam là
có thể làm bất cứ chuyện gì miễn là đạt được cái lợi trước mắt. Khi cần
tiêu diệt các phe phái đối lập thì bịa đặt, vu khống để giết họ, hứa hẹn
những cái mình sẽ không làm để lôi kéo người hoạt động cho mình, xuyên
tạc, bịa đặt lịch sử miễn sao có lợi cho mình, còn dân tộc bị nhiễm các
hiểu biết lầm lạc thì mặc kệ.Chi bộ trí thức
14:50 | 08/10/2012
Lê Văn LânChi bộ Trí thức là một cụm từ vừa thân quen vừa lạ lẫm. Thân quen là đối với những người hoạt động trong phong trào đô thị Huế. Và lạ lẫm là trong công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là ở thời điểm 9 năm kháng chiến chống Pháp. Những năm 1948 – 1950 ở Huế có một Chi bộ như thế: Chi bộ Trí thức.
Lịch sử Đảng bộ thành phố (1930 – 2000) đã ghi rõ: “Một Chi bộ do Thị ủy trực tiếp chỉ đạo đã được thành lập gồm ông bà bác sĩ Thân Trọng Phước, bác sĩ Lê Khắc Quyến, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, kỹ sư Nguyễn Hữu Đính, công thương gia Nguyễn Ngọc Bang”.
Chân dung Chi bộ Trí thức
Ở thời điểm này, phần lớn những người trong Chi bộ Trí thức đều đã mất. Những người trực tiếp lãnh đạo Chi bộ như ông Tư Minh, ông Ngô Lén, ông Hồng Xích Tâm, ông Vũ Xuân Chiêm, ông Hoàng Lanh… đều không còn, những người còn sống thì cũng đã qua tuổi 90, nhớ nhớ quên quên. Chúng tôi tìm gặp ông Trần Hân, nguyên Bí thư Thị ủy Huế những năm 1954 – 1955, qua trao đổi ông cho biết: Khi nhận nhiệm vụ Bí thư Thị ủy nghe nói trước đó có Chi bộ Trí thức nhưng không rõ lắm, có gì gặp ông Phan Nam. Chúng tôi tìm gặp ông Ngô Yên Thi, nguyên Ủy viên TW Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, người chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế. Ông khẳng định: Những năm 1948 – 1950 Huế có Chi bộ Trí thức nhưng lúc đó mình còn nhỏ không rõ lắm. Người biết rõ Chi bộ này là ông Phan Nam. Qua giới thiệu của ông Trần Hân và ông Ngô Yên Thi, chúng tôi tìm gặp ông Phan Nam – nguyên Chủ tịch UBND Thành phố.
Ông Phan Nam, là cán bộ lão thành cách mạng tham gia cướp chính quyền ở huyện Phú Lộc trong Cách mạng Tháng 8, cùng đồng bào Phú Lộc biểu tình cướp chính quyền Huế. Là tự vệ cảm tử xã Vinh Giang (Phú Lộc) tăng cường tham gia trung đoàn Trần Cao Vân 101. Năm 1947 là Bí thư Chi bộ xã Vinh Giang, Bí thư Chi bộ nhiều xã vùng địch hậu ở Phú Lộc, tham gia Huyện ủy Phú Lộc. Chuẩn bị cho tổng phản công 1950; ông Phan Nam, ông Võ Đại Triều là 2 trong 6 người được Thường vụ Tỉnh ủy điều động tăng cường vào bám trụ ở Huế. Và cơ sở ông Phan Nam tiếp cận chính là Chi bộ Trí thức với nhiệm vụ quan hệ và phát huy Chi bộ này trong tổng phản công. Ông Phan Nam tâm sự: Ban đầu tiếp xúc với các vị trong Chi bộ Trí thức ông rất ngại vì lúc đó ông còn rất trẻ, các vị lại vào hàng cha chú, học nhiều hiểu rộng, hiểu chủ nghĩa Cộng sản từ trường học, sách báo phương Tây. Vào Đảng từ sự kính trọng những nhà trí thức lớn chung quanh Bác Hồ và xem những nhà lãnh đạo ở Huế lúc bấy giờ như ông Tư Minh, ông Ngô Lén… là “thần tượng”. Vì vậy, các vị rất tin tưởng những anh em Tỉnh ủy cử về tiếp xúc.
Theo ông Phan Nam, người Thị ủy phân công chỉ đạo trực tiếp Chi bộ là ông Tôn Thất Long, con trai cụ Thượng thư Tôn Tất Đàn. Bí thư Chi bộ là kỹ sư Hà Xuân Hiển, các đảng viên trong chi bộ gồm các vị: Ông Hà Xuân Vịnh (em ruột ông Hà Xuân Hiển), hai vợ chồng bác sĩ Thân Trọng Phước, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, bác sĩ Lê Khắc Quyến, kỹ sư Nguyễn Hữu Đính, họa sĩ Phạm Đăng Trí, công thương gia Nguyễn Ngọc Bang, cùng một số vị mà giờ không nhớ hết. Danh sách có thể kéo dài thêm nữa.
Ông Trần Hân, nguyên Trưởng ty Công an Thừa Thiên Huế, tháng 7/1954 ông được phân công vào Huế làm Bí thư Thành ủy (lúc này thị ủy được nâng lên Thành ủy, trực thuộc Khu ủy khu IV) trực tiếp chỉ đạo phong trào hòa bình ở Huế. Một năm sau tháng 8/1955 ông bị địch bắt trong suốt 20 năm, gần như toàn bộ tuổi thanh xuân của mình ông triền miên chiến đấu với kẻ thù từ nhà tù này đến nhà tù khác, đặc biệt là địa ngục trần gian Côn Đảo. Năm 1974 địch thả ông ra trong tình trạng thập tử nhất sinh, hai chân bại liệt, chỉ còn chờ chết. Tổ chức đã nhanh chóng đưa ông ra vùng giải phóng. Ở vùng giải phóng, trong các cuộc tiếp xúc cùng cán bộ chiến sĩ B14 (cơ quan Thành ủy trong kháng chiến); ông Hoàng Lanh luôn giới thiệu ông Trần Hân là một người anh đáng kính, kiên cường trong đấu tranh với kẻ thù, thà chết cương quyết bảo vệ cách mạng, bảo vệ đồng chí đồng đội.
Ông Trần Hân cho biết: Có nghe nói Chi bộ Trí thức nhưng không rõ lắm. Nhưng những tâm sự của ông Trần Hân cũng cho ta cảm nhận thành viên của Chi bộ Trí thức có thể đông hơn. Chẳng hạn giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Tiềm đã là đảng viên khi còn ở Vân Dương, năm 1947 được Thị ủy điều vào cư trú trong nội thị. Và như vậy trong Chi bộ Trí thức có giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm. Cũng theo ông Trần Hân, Thị ủy lãnh đạo phong trào nhân sĩ trí thức yêu nước qua một ban cán sự gồm bác sĩ Thân Trọng Phước, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, nhà văn Võ Đình Cường. Nhà văn Võ Đình Cường trong ban cán sự Đảng thì không thể không là đảng viên…
Nhưng chỉ chừng ấy thôi cũng đã nói lên tầm vóc, vị trí, tính chiến lược của Chi bộ Trí thức nằm ngay trung tâm đầu não của thực dân Pháp và triều đình phong kiến ở Huế; mới thấy hết tính sáng tạo, độc đáo của Thị ủy Huế trong công tác xây dựng Đảng. Chúng ta cần biết tháng 7/1947 Huế chỉ có 10 đảng viên, năm 1948 có 38 đảng viên, cuối 1949 là 100 đảng viên (trong đó có 72 đảng viên hoạt động hợp pháp).
Thời đó, khi nói đến Chi bộ Trí thức, nhiều người nói vui đó là Chi bộ Salon, Chi bộ Bơ sữa. Trên một khía cạnh nào đó điều này cũng đúng. Theo ông Trần Hân, nói Chi bộ Bơ sữa bởi người dân thời đó làm gì có bơ sữa để ăn, những người trong Chi bộ Trí thức phần lớn có cuộc sống quá đầy đủ, có vị trí xã hội cao trong vùng tạm chiếm. Nói Chi bộ Salon cũng đúng bởi vì những vị trong Chi bộ thực sự là những chính khách như bác sĩ Thân Trọng Phước hoạt động cách mạng từ những năm 20 của thế kỷ trước, là đảng viên Đảng Tân Việt từ những năm 1925, được kết nạp vào Đảng Cộng sản từ những năm 1930. Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ có tinh thần đấu tranh với kẻ thù không mệt mỏi, với uy tín nghề nghiệp và uy thế chính trị của mình, buộc địch không còn cách nào khác trục xuất qua sông Bến Hải năm 1965, tạo nên một sự kiện độc đáo trong cách mạng miền Nam. Bác sĩ Lê Khắc Quyến, Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế, người đấu tranh trực diện với chính quyền Diệm khi chúng đưa giáo sư Trần Hữu Thế ra thay linh mục Cao Văn Luận (người ủng hộ phong trào đấu tranh của Phật giáo) làm Viện trưởng Viện Đại học Huế, sau chính biến 1963, bác sĩ Lê Khắc Quyến là Chủ tịch Hội đồng nhân dân cứu quốc khi ngụy quyền thành lập cơ quan lãnh đạo Tam đầu chế: Dương Văn Minh – Trần Thiện Khiêm – Nguyễn Khánh, ra thông báo đòi tập đoàn Cần lao phải đến trình diện và tự thú. Uy thế của phong trào buộc địch phải mời bác sĩ Lê Khắc Quyến tham gia vào cơ quan lãnh đạo cao nhất của chúng: Thượng hội đồng Quốc gia. Hoặc như kỹ sư Nguyễn Hữu Đính, thời chống Pháp đã là Giám đốc Nha Thủy Lâm Trung trung bộ, một chức vụ bộ trưởng trong chính quyền Mỹ – Ngụy có lẽ không quá khó khăn nếu cụ muốn.
Chi bộ Trí thức và phong trào hòa bình
Phong trào Hòa bình là phong trào đấu tranh trong các đô thị, đặc biệt là Huế và thành phố Sài Gòn diễn ra từ năm 1954 với nhiệm vụ chiến lược là bảo vệ hòa bình, đòi thi hành Hiệp định Genève, đòi hiệp thương tổng tuyển cử, đòi dân chủ dân sinh, hướng mọi người vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Lúc này Chi bộ Trí thức không còn nữa, nhưng chính những người trong Chi bộ Trí thức lại là những nhân vật chủ chốt của phong trào này. Phong trào Hòa bình ở Huế mở ra trong lúc Mỹ – Diệm mở chiến dịch “Tố cộng”. Ai nói hòa bình, bảo vệ hòa bình là cộng sản. Chúng xem ngày ký Hiệp định Genève 20/7 là ngày Quốc hận. “Quốc gia phải tiêu diệt cộng sản đến tên cuối cùng”. Đỉnh cao của Phong trào Hòa bình là 2 cuộc biểu tình lớn ngày 1/5 và 28/8/1955, mỗi cuộc biểu tình thu hút trên 3 vạn đồng bào tham dự. Nhân ngày quốc tế lao động 1/5, các tầng lớp nhân dân Huế và các huyện mitting tại Quảng trường Phu Văn Lâu đòi dân sinh, dân chủ, đòi đắp đập Thuận An, đòi lập quan hệ Bắc Nam, tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước, đòi tôn trọng và thực thi dân chủ, chống đàn áp khủng bố. Cuộc biểu tình ngày 28/8, cũng nội dung đòi thi hành Hiệp định Genève nhưng quyết liệt hơn nhiều, cuộc biểu tình với bảng kiến nghị mang hàng vạn chữ ký của nhân dân đòi Ngụy quyền phải bàn bạc, hiệp thương tổng tuyển cử. Chính quyền Diệm điều động công an, cảnh sát, mật vụ và cả quân đội đàn áp tàn bạo. Sau đó Ngô Đình Diệm phải ra Huế xoa dịu và giải quyết một số yêu sách.
Nói đến Phong trào Hòa bình ở Huế không thể không nhắc đến tập văn Ngày Mai (xem thêm Sông Hương số 275, tháng 1/2012). Liền sau khi hiệp định Genève ký kết, tháng 8/1954 tập văn Ngày Mai ra mắt bạn đọc, tiếp đó tháng 10/1954 tập 2, tháng 12/1954 tập 3, tập 4 số mùa xuân 1955 được gọi là tập văn Xuân Hòa Bình; tập 5 bị tịch thu hoàn toàn, giấy phép xuất bản bị rút. Nòng cốt của tập văn Ngày Mai phần lớn là trong Chi bộ Trí thức gồm các ông Thân Trọng Phước, Tôn Thất Dương Kỵ, Nguyễn Hữu Đính, Cao Xuân Lữ, Tôn Thất Dương Tiềm, Võ Đình Cường, Phạm Đăng Trí, Nguyễn Hữu Ba… Không chỉ ở Huế, tập văn Ngày Mai còn được phát hành tại Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt và thành phố Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh thông tin tuyên truyền thời đó, việc ra đời tập văn Ngày Mai như là một cơ quan ngôn luận hợp pháp của cách mạng là một cái gai trước mắt đối với chính quyền Mỹ – Diệm. Ngay từ tập 1, Võ Đình Cường, Tôn Thất Dương Kỵ, Lê Quang Vịnh đã bị trấn áp; đến Ngày Mai tập 3 thì họ bị bắt giam và trục xuất khỏi Thừa Thiên Huế.
Đánh giá Phong trào Hòa bình, tập văn Ngày Mai và Chi bộ Trí thức là một việc làm nghiêm túc và cần thiết không chỉ ở một giai đoạn lịch sử sau Hiệp định Genève mà còn tác động đến phong trào đô thị Huế trong những năm chống Mỹ cứu nước. Nhưng điều không ai có thể phủ nhận được phong trào đã tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân sĩ trí thức, các công thương gia tiêu biểu của Huế, từ Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Thảo Am Nguyễn Khoa Vi, Võ Liêm Sơn… đến Nguyễn Hữu Ba, Tam Ích, Lê Dân… và thế hệ trẻ thời đó như Lê Quang Vịnh, Trụ Vũ, Hoàng Nguyên… Mặc khác Phong trào Hòa bình đã đẩy Mỹ – Diệm vào chân tường buộc Diệm phải bộc lộ chân tướng trước nhân dân làm tay sai cho Mỹ, buộc Mỹ phải phơi bày dã tâm của kẻ xâm lược can thiệp vào nội tình Việt Nam, kéo dài sự chia cắt.
Đảng viên Chi bộ Trí thức thời chống Mỹ
Có thể nói sau năm 1954, Chi bộ Trí thức trên thực tế không còn tồn tại. Nhiều đảng viên không còn sinh hoạt Đảng. Có nhiều nguyên nhân và chỉ có người trong cuộc mới có thể trả lời được. Mặc khác, Chi bộ Trí thức cũng như các đảng viên nhân sĩ trí thức phần lớn được tổ chức hoạt động đơn tuyến, bảo đảm bí mật và thế hợp pháp, sinh hoạt bị gián đoạn làm mất liên lạc đảng viên là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, dù trong hoàn cảnh nào, đảng viên trong Chi bộ Trí thức vẫn đứng vững trên trận tuyến của mình và là chỗ dựa tin cậy vững chắc của cách mạng trong lòng địch và trong chừng mực nào đó, họ và gia đình đã trở thành những pháo đài giữa lòng thành phố.
Đó là giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, đảng viên từ năm 1947 ở Vân Dương được điều vào nội thị, là người chủ chốt trong Chi bộ Trí thức và Phong trào Hòa bình. Ông bà Tôn Thất Dương Kỵ có nhà In Khánh Quỳnh hoạt động những năm 1950 – 1951, Nxb Tâm Huệ hoạt động cuối năm 1953. Đây là nơi đã xuất bản tập thơ Tiếng nói dân nghèo, toàn văn Hiệp định Genève, thơ Vũ Anh Khanh, thơ Đoàn Văn Long. Sau tập văn Ngày Mai, ông bị địch bắt và trục xuất khỏi Thừa Thiên Huế. Vào thành phố Sài Gòn ông tiếp tục hoạt động cách mạng và bị trục xuất qua sông Bến Hải năm 1965. Năm 1968 ông tham gia vào liên minh các Lực lượng dân tộc dân chủ hòa bình. Anh em chú bác với ông là giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, trong Chi bộ Trí thức, hoạt động trong Nội thành đến năm 1968 thoát ly tham gia kháng chiến và sau ngày giải phóng là Trưởng phòng Giáo dục. Bố vợ giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, cụ Nguyễn Đóa hoạt động trong Nội thành, năm 1968 thoát ly tham gia kháng chiến và là Phó Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Anh rể giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, ông Phan Văn Chính, một cơ sở cách mạng tin cậy trong lòng địch… Nói chung toàn bộ gia đình là cơ sở “cộm cán” của Thành ủy; các đồng chí lãnh đạo thành phố Hoàng Lanh, Phan Nam, Hoàng Kim Loan… khi vào Nội thành đều đến các gia đình này bởi được bí mật và an toàn.
Đó là kỹ sư Nguyễn Hữu Đính, đảng viên trong Chi bộ Trí thức từng là Giám đốc Nha Thủy Lâm Trung trung bộ, Hiệu trưởng Trường Nông Lâm Súc Huế. Trong chống Mỹ cứu nước ông là đầu mối giúp Thành ủy móc nối liên lạc với tầng lớp trên, ông cũng là Chủ tịch Ủy ban Bảo trợ Sinh viên Huế, hỗ trợ hoạt động của Tổng hội Sinh viên Huế những năm cuối cùng của cuộc chiến. Nhà ông có hai căn hầm bí mật là nơi an toàn cho các đồng chí lãnh đạo thành phố đột nhập vào Huế. Con cụ nhiều người là cơ sở cách mạng như Nguyễn Hữu Châu Phan hoạt động trong Nội thành, Nguyễn Hữu Hài hoạt động ở Sài Gòn và thoát ly tham gia kháng chiến. Sau giải phóng cụ là Ủy viên Trung ương MTTQ Việt Nam, Chủ tịch UBMTTQ thành phố Huế. Cụ cũng là người sáng lập Trung tâm Nghiên cứu Huế.
Có thể nói rằng, không riêng gì gia đình giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, kỹ sư Nguyễn Hữu Đính, bác sĩ Thân Trọng Phước… những người trong Chi bộ Trí thức dù còn tiếp tục sinh hoạt Đảng hoặc bị gián đoạn, nhưng suốt quá trình chống Pháp cũng như chống Mỹ cứu nước họ luôn là người trí thức mẫu mực đáng kính, tùy theo cương vị của mình họ luôn có đóng góp tích cực vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bản thân họ và gia đình là một pháo đài giữa lòng thành phố với đầy đủ sức hút và lan tỏa của nó. Họ là tấm gương sáng, là ngọn cờ tập hợp lực lượng trong phong trào đô thị.
Lê Văn Lân
Tạp chí Sông Hương, số Đặc Biệt
(SĐB9-12)
Những người tác động tới nội các Dương Văn Minh
QĐND – Thứ Ba, 16/04/2013
QĐND – Tôi có dịp
gặp Thiếu tướng Nguyễn Văn Khiêm (tức Sáu Trí), người chỉ huy Khối điệp
báo-Tình báo quân sự Quân giải phóng miền Nam trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ và được nghe ông kể lại những năm tháng hoạt động nội tuyến
trong Tổng Nha Cảnh sát của chính quyền Sài Gòn, nhất là thời điểm ông
và đồng đội từng tham gia tác động để nội các Dương Văn Minh tuyên bố
đầu hàng ngày 30-4-1975…
Trưa 28-4-1975, sau
bữa cơm trưa, tôi đang ngồi đọc báo trên gác nhà H3 (bí danh của Ba Lễ,
một cán bộ điệp báo của ta) tại khu Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn thì một
người con của H3 lên báo tin: Có hai người không phải bạn của H3 nhưng
lại nói muốn gặp Sáu Trí. Đây là một tình huống bất ngờ, song tôi nghĩ
mình cần phải tìm hiểu cụ thể hơn nên đã nhờ H3 xuống phòng khách xem
hai người ấy là ai, tại sao lại biết tôi ở đây, gặp tôi để làm gì? Một
lát sau, H3 lên cho biết: Đó là anh Tô Văn Cang, một nhân sĩ trí thức
yêu nước, công tác trong lưới tình báo của anh Đinh Sơn Đường (tức Hai
Thắng) Cụm A24 từ đầu năm 1973. Cùng đi với anh là kỹ sư Lê Văn Giàu,
một cơ sở trí vận của ta. Tô Văn Cang đến đây là do nội các Dương Văn
Minh muốn nhờ anh đi tìm đại diện của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nhằm
thương lượng một vấn đề quan trọng.
Sở dĩ Tô Văn Cang
biết tôi có mặt tại Sài Gòn là do Hai Thắng tiết lộ. Thấy việc đó không
ảnh hưởng nhiều tới công việc của lưới tình báo nên tôi đã xuống gặp.
Khi thấy tôi, Tô Văn Cang đứng dậy chào, tự giới thiệu là cán bộ của Cụm
A24 và là cha ruột của một chiến sĩ tình báo công tác tại A24. Anh xin
lỗi vì đã vi phạm nguyên tắc bí mật, đường đột đến tìm tôi và cho biết:
“Tôi là bạn thân của Nguyễn Văn Diệp (Tổng trưởng Tiếp thương trong nội
các Dương Văn Minh, trước đó Diệp là Giám đốc Việt Nam ngân hàng). Vì
Dương Văn Minh muốn bố trí gặp người đại diện cấp cao của Mặt trận Dân
tộc Giải phóng nên Diệp đã nhờ tôi đi tìm”. Tô Văn Cang cũng giải thích
vì nội các Dương Văn Minh chia làm hai phe, một phe chịu thương lượng
với Mặt trận Dân tộc Giải phóng để kết thúc chiến tranh với bất cứ giá
nào, phe thứ hai với người đại diện là Nguyễn Bảo Kiếm quyết tử thủ Sài
Gòn, cố gắng kéo dài chiến tranh thêm một thời gian hòng kiếm giải pháp
có lợi cho chính quyền Sài Gòn. Phe chủ hòa do Diệp cầm đầu có nhiều ảnh
hưởng đến Dương Văn Minh nên muốn tìm gặp đại diện của ta để xử trí
trong bối cảnh căng thẳng. Tôi trả lời Tô Văn Cang là chỉ vào Sài Gòn có
việc riêng nên không có tư cách đại diện của cách mạng để gặp gỡ bất cứ
ai, còn chính quyền Dương Văn Minh muốn gặp Chính phủ Cách mạng lâm
thời thì cứ đến cơ quan bốn bên tại Tân Sơn Nhất, ở đó luôn có người
thường trực. Tô Văn Cang truyền đạt câu hỏi thứ hai của Nguyễn Văn Diệp:
Trong hoàn cảnh hiện nay, nội các Dương Văn Minh nên xử trí ra sao? Tôi
trả lời rằng, Dương Văn Minh là một nhà quân sự nên ông ta có thừa khả
năng để đánh giá tình thế khi Sài Gòn đang bị các quân đoàn của Quân
Giải phóng bao vây. Quân đội Sài Gòn sẽ không còn đủ lực lượng để chống
đỡ, Mỹ không thể đưa quân trở lại và cũng không còn thì giờ tiếp cứu.
Chính quyền Sài Gòn đừng ảo tưởng vì sự cứu viện của Mỹ cũng như của bất
cứ cường quốc nào. Sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn được tính từng ngày,
nếu để kéo dài tình trạng ấy sẽ gây tác hại lớn, đồng bào thương vong
nhiều, thành phố Sài Gòn sẽ đổ nát. Nếu chọn giải pháp tử thủ Sài Gòn
thì nội các Dương Văn Minh sẽ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử, trước
nhân dân. Vì thế, việc đầu hàng ngay và đầu hàng vô điều kiện là thái
độ có trách nhiệm trước sinh mạng của nhân dân…
Sau đó, Tô Văn Cang
đã thông qua Nguyễn Văn Diệp và Nguyễn Đình Đầu (một trí thức có nhiều
ảnh hưởng đối với Dương Văn Minh) nhằm tác động đến viên tổng thống cuối
cùng của chính quyền Sài Gòn. Thảo luận với Nguyễn Văn Diệp xong thì 16
giờ ngày 29-4, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền lên đài phát thanh tuyên
bố “sẵn sàng thương thuyết hòa bình với Mặt trận Giải phóng”.
Khoảng hơn 8 giờ
ngày 30-4, Nguyễn Đình Đầu điện thoại cho anh Cang báo tin là Dương Văn
Minh đã chịu chấp thuận đầu hàng vô điều kiện. Nguyễn Văn Diệp cũng gọi
điện thoại mời Tô Văn Cang vào Dinh Độc Lập để tổ chức đón tiếp Chính
phủ Cách mạng lâm thời và dặn nên đi theo lối đường Nguyễn Du, tại đó
Nguyễn Văn Diệp sẽ ra đón. Tô Văn Cang liền đi cùng xe do kỹ sư Lê Văn
Giàu lái hướng về phía Dinh Độc Lập, nhưng đến cầu Bông thì xe bị cảnh
sát Sài Gòn chặn lại, không cho vào nội thành. Xe phải chạy ra lối ngã
tư Hàng Xanh, đến ngã tư xa lộ thì gặp đoàn xe thiết giáp của Quân Giải
phóng từ hướng cầu Sài Gòn chạy đến và đang lúng túng chưa biết đi đường
nào. Tô Văn Cang liền tiến đến chiếc đi đầu và ra hiệu cho đoàn xe
thiết giáp chạy theo xe của mình…
Khoảng 9 giờ 30
phút sáng 30-4, tại nhà H3, tôi nghe trên Đài Phát thanh Sài Gòn lời
phát biểu của Dương Văn Minh kêu gọi quân đội Sài Gòn buông súng, chấp
nhận những điều kiện của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Vài giờ sau, Tô
Văn Cang và người bạn của anh là kỹ sư Lê Văn Giàu lại mời tôi và H3 vào
Dinh Độc Lập để chứng kiến sự đầu hàng của nội các Dương Văn Minh,
tránh mọi hành động đáng tiếc xảy ra khi Quân Giải phóng vào tiếp quản
Dinh Độc Lập. Tôi và H3 cùng theo xe của Tô Văn Cang vào Dinh Độc Lập,
đến phòng của Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền thì có một bộ phận Quân
Giải phóng đã có mặt trong dinh. Bộ đội ta đòi bắt toàn bộ các nhân vật
này làm tù binh. Sợ anh em vi phạm chính sách của Mặt trận Giải phóng,
tôi liền gặp và giải thích: Nội các Dương Văn Minh đã chấp thuận theo
những điều kiện của ta nên vừa có thông báo đầu hàng trên Đài phát
thanh. Lúc đầu, anh em không tin vì thấy tôi mặc thường phục. Tôi tự
giới thiệu là Đại tá Sáu Trí, Sĩ quan Bộ Tham mưu B2 vào Sài Gòn làm
công tác đặc biệt trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. May sao, đúng lúc đó
xuất hiện một sĩ quan thuộc đơn vị thiết giáp, anh chính là người bạn
học cùng khóa quân sự cấp cao với tôi ở Hà Nội. Anh tới bắt tay tôi và
thân mật nói: “Đi đâu cũng gặp thằng tình báo này!”.
Sau đó, tôi gặp
Thiếu tướng Nguyễn Hữu An-Tư lệnh Quân đoàn 2 -và cùng anh bàn việc tiếp
quản Dinh Độc Lập. Chúng tôi nhất trí nên có lời công bố chính thức của
Quân Giải phóng trên đài phát thanh. Thiếu tướng Nguyễn Hữu An phân
công tôi soạn thảo gấp. Tôi cùng với Tô Văn Cang, Ba Lễ bàn nhau và
thống nhất giao cho Tô Văn Cang chấp bút bản thông báo với tựa đề “Thông
báo số 1”. Viết xong, tôi đến gặp Thiếu tướng Nguyễn Hữu An để thông
qua. Ông tế nhị từ chối không đề tên đơn vị mình và đề xuất chỉ nên đề
là “Bộ tư lệnh Quân Giải phóng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định”. Anh Cang được
phân công cùng với anh Giàu lên xe com-măng-ca chạy ra Đài phát thanh.
Phải khó nhọc lắm xe của anh mới vào được trong. Anh Cang lên lầu, đọc
chậm và rõ bản “Thông báo số 1”. Anh Giàu đọc lại lần hai. Sau đó dặn cứ
5 phút thì lặp lại một lần.
Bản “Thông báo số
1” của Bộ tư lệnh Quân giải phóng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định là bản tin
chính thức được ta phát trên Đài phát thanh, vài giờ sau lời tuyên bố
đầu hàng của Dương Văn Minh.
Trong lúc tôi và
Thiếu tướng Nguyễn Hữu An đang bàn công tác bảo đảm an ninh thì anh em
cho biết những thành viên nội các Dương Văn Minh đang tỏ ra hoảng loạn.
Anh An bảo tôi nên đi gặp gỡ họ vì tôi là người miền Nam, lại làm tình
báo nên biết tâm lý, tình cảm của họ. Tôi mời họ ra hành lang để nói
chuyện. Tướng Minh đứng trước, các thành viên đứng kế tiếp. Tôi động
viên họ về sự chiến thắng vĩ đại của quân, dân ta và về việc đầu hàng
không điều kiện của nội các Dương Văn Minh đã giúp cho thành phố Sài Gòn
vẫn giữ được nguyên vẹn. Tôi còn hứa sẽ bảo đảm việc an toàn tính mạng
cho họ. Lúc ấy, Dương Văn Minh xin phép tạt qua phòng riêng để thăm
người vợ đang lo lắng cho số phận của chồng, anh Cang cũng rảo bước theo
sau…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét