Giới thiệu của Giao
Chỉ, San Jose.
Lời nói đầu: Nhân dịp thời sự còn bàn tán về cuốn phim Terror in
Little Saigon với đề tài các nhà báo Việt Nam bị sát haị 35 năm trước, chúng
tôi đăng bài "Trách chi người đem thân giúp nước" để giới thiệu hồi
ký của một kháng chiến quân. Qua bài viết tôi bầy tỏ công khai cảm tình với
kháng chiến và đặc biệt hết sức quý trọng tinh thần hy sinh của tướng Hoàng Cơ
Minh. Bài viết tác giả nghĩ là trung thực nhưng vẫn có một số anh em kháng
chiến không vui. Số người thường trực chống đối thì đánh phá đồng loạt. Các
diễn đàn đăng tải những luận điệu xấu xa, sai lầm một chiều đã giết chết các cơ
hội thảo luận đứng đắn. Nhiều thức giả sợ hãi không còn muốn lên tiếng. Nhưng
có một người đã can đảm nói ra tấm lòng ngưỡng mộ các anh hùng kháng chiến và
đề đốc Hoàng Cơ Minh. Đó là bà Điệp Mỹ Linh.
Một tiểu thuyết gia có nhiều tác phẩm. Đặc biệt, vì là phu nhân một sĩ quan hải
quân VNCH bà đã có nhiều tin tức và cơ hội sáng tác cuốn ký sử Hải quân VNCH rakhơi.
.
Năm xưa, khi Hồi Ký Hành Trình Người Đi Cứu Nước của Phạm-Hoàng-Tùng ra mắt tại Houston. Điệp-Mỹ-Linh là người duy nhất giới thiệu Hồi Ký này. Tôi rất hân hạnh giới thiệu nguyên văn bài nói chuyện dưới đây.
.
Năm xưa, khi Hồi Ký Hành Trình Người Đi Cứu Nước của Phạm-Hoàng-Tùng ra mắt tại Houston. Điệp-Mỹ-Linh là người duy nhất giới thiệu Hồi Ký này. Tôi rất hân hạnh giới thiệu nguyên văn bài nói chuyện dưới đây.
Đề-Đốc
Hoàng Cơ Minh tro ng Hồi Ký Kháng Chiến. Hành Trình Người Đi Cứu Nước của Kháng Chiến Quân
PhạmHoàng Tùng
.
Điệp-Mỹ-Linh
Kính thưa quý vị,
Kính thưa quý vị,
Trước khi vào
chủ đề của buổi ra mắt Hồi Ký Kháng Chiến Hành Trình Người Đi Cứu Nước của cựu
Kháng Chiến Quân Phạm-Hoàng-Tùng, tôi xin cảm ơn ban tổ chức đã dành cho tôi
vinh dự hiếm hoi này. Và tôi cũng xin xác định, tôi chỉ sẽ nói về hai cuốn Hồi
Ký này chứ tôi sẽ không gián tiếp hoặc trực tiếp đề cập đến bất cứ một đoàn
thể, một cá nhân hay là một tổ chức nào cả.
Trước khi vào chủ đề của buổi ra mắt Hồi Ký Kháng Chiến
Hành Trình Người Ði Cứu Nước của cựu Kháng Chiến Quân Phạm-Hoàng-Tùng, tôi xin
cảm ơn ban tổ chức đã dành cho tôi vinh dự hiếm hoi này. Và tôi cũng xin xác
định, tôi chỉ sẽ nói về hai cuốn Hồi Ký này chứ tôi sẽ không gián tiếp hoặc
trực tiếp đề cập đến bất cứ một đoàn thể, một cá nhân hay là một tổ chức nào
cả.
Kính thưa quý vị,
Sau khi nhận lời của ban tổ chức tôi hơi phân vân, khó
nghĩ, vì tôi chỉ là một ngòi bút tài tử. Tôi không thích và không hề tham gia
vào các hoạt động chính trị, mà đây là một buổi ra mắt của hai cuốn hồi ký mang
nhiều dữ kiện chính trị thời đại. Nhưng nghĩ lại, tôi thấy rằng tôi hành động
đúng khi nhận lời phát biểu cảm tưởng về hai cuốn tài liệu chính trị này; bởi vì,
khi một nhà văn cầm bút viết ra một tác phẩm – dù chỉ là một tác phẩm tình cảm
lãng mạn lứa đôi – thì nhà văn đó đã, một phần nào, hé lộ chiều hướng chính trị
của mình. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng độc giả của tôi cũng đã âm thầm đặt tôi vào
vị thế không cùng giới tuyến với những người đã đem đau thương, tang tóc vào
miền Nam Việt-Nam.
Một lý do khác cũng khiến tôi rất ngại ngùng, đó là tôi
không nhận được sách từ sớm để đọc. Ðến tối thứ Năm, cách nay 3 hôm, đi
làm, về tôi mới nhận được cuốn
thứ nhất. Khi thấy hai chữ “Bí mật” trên bìa sách, tôi hơi khựng lại. Rồi thứ
Sáu tôi mới nhận được cuốn thứ hai. Trong khi đọc sách và tìm ý để viết bài thì
vài người bạn, sau khi nghe đài phát thanh thông báo Điệp Mỹ Linh sẽ là
người giới thiệu hai cuốn Hồi Ký đó, đã điện thoại, khuyên tôi không nên “dính”
vào hai cuốn sách này... nguy hiểm! Tôi lại suy nghĩ và lo âu, có ý muốn từ
chối, không giới thiệu sách nữa. Nhưng nghĩ lại, tự biết là người tự trọng, có
trách nhiệm và luôn luôn tôn trọng sự thật; thêm nữa Hành Trình Người Ði Cứu
Nước chỉ là những trang sách ghi lại những diễn tiến trong cuộc đời của một
thanh niên, vì hoài bão lớn, vì lòng yêu Quê Hương, đã dấn thân và vô tình trở
thành chứng nhân của nhiều sự kiện lịch sử, cho nên tôi vẫn viết bài.
Vậy thì, dù hôm nay, nếu chỉ có một vị quan khách thôi,
tôi cũng sẽ rất vui lòng trình bày cảm nghĩ của tôi để vị đó cùng chia xẻ với
tôi. Vì đây là hai cuốn sách mà ai không đọc thì người đó sẽ không tìm được
những phút giây ngậm ngùi để lòng mình lắng xuống cho những xót xa, ray rứt
dâng trào!
Kính thưa quý vị,
Về hình thức, tác phẩm được trình bày rất công phu, đẹp
và tỉ mỉ. Cách sắp xếp các chương theo thứ tự thời gian. Tác giả cũng có công
tìm tòi nhiều chi tiết địa lý rất chi li về những vùng mà tác giả đã đi qua. Sơ
đồ của các vùng chiến khu cũng được vẽ rất rõ ràng, dễ hiểu.
Về nội dung, Hồi Ký Hành Trình Người Ði Cứu Nước chứa
đựng rất nhiều dữ kiện mà chính tác giả Phạm-Hoàng-Tùng đã trực tiếp tham dự.
Vì vậy, đây không những là hồi ký của một người đã thật sự dấn thân cho đại
cuộc mà đây còn là tài liệu lịch sử rất giá trị, viết về những người hùng có
thật, những đau thương có thật, những dã man có thật, những cuộc đụng độ với
Việt-Cộng có thật và những cái chết đầy bi hùng cũng có thật!
Sở dĩ tôi tin những gì tác giả Phạm-Hoàng-Tùng viết là sự
thật, vì 3 lý do sau đây:
1.-Tác giả viết từ vị thế của một thanh niên đi theo
tiếng gọi thầm kín của lòng yêu nước chứ không phải từ cương vị của một cấp
lãnh đạo hoặc cương vị của một người viết hồi ký để đánh bóng cái “tôi” của họ
rồi đổ bừa tất cả lỗi lầm cho người đã chết. Tác giả không ngại ngùng khi viết
về sự rời bỏ đơn vị của chính anh, khi đơn vị của anh đụng độ trận quyết liệt
cuối cùng với Việt-Cộng. Và tác giả cũng rất thành thật khi viết về thân thế
của anh chứ anh không hề thêm bớt hoặc vay mượn như nhiều người khác.
2.- Văn phong của tác giả rất dung dị, chừng mực, bình
thản, trầm tĩnh. Phạm-Hoàng-Tùng không nặng lời với bất cứ nhân vật nào và anh
cũng không hề oán trách ai. Ngay như đối với Cộng Sản Việt-Nam, một tập thể bất
nhân, đầy ác tính, đã tạo ra không biết bao nhiêu cảnh tương tàn trên Quê Hương
và đã đưa tác giả Phạm-Hoàng-Tùng vào lao tù mà Phạm-Hoàng-Tùng cũng chỉ vạch
rõ những sai lầm, những bất nhân của họ chứ Phạm-Hoàng- Tùng cũng không thóa
mạ, không dành cho họ những danh từ hạ cấp, thiếu lễ độ. Tôi nghĩ đây là tác
phong của người trí thức, của người cầm bút có nhiều tự tin và tự trọng.
3.-Phạm-Hoàng-Tùng ghi lại danh tánh và cho biết tình
trạng còn sống, đã chết, mất tích hoặc còn bị cầm tù của từng Phục Quốc Quân.
Thưa quý vị, tôi còn nhớ, khoảng đầu thập niên 80, tại
University of Houston, khi cựu Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh cùng tổ chức của Ông
trình diện trước nhiều ngàn đồng bào, tôi đã khóc vì xúc động! Tôi thầm mong
Ông cũng như những người trẻ dấn thân sẽ làm được “một chút gì” cho Quê Hương.
“Một chút gì” đó không có nghĩa là lập lại hoàn toàn những khuôn mẫu của thời
Việt-Nam Cộng-Hòa trước năm 1975 mà là “một chút gì” tốt đẹp hơn.
Nói đến “một chút gì” tốt đẹp cho Quê Hương, tôi chợt nhớ
đến một nhân vật chính trong truyện ngắn Cây Ðàn của Thầy Dưỡng do Điệp-Mỹ-Linh
viết, dựa theo những chi tiết có thật của một người bạn của Ba tôi trong
Hội-Mỹ-Thuật Nha-Trang vào thập niên 40 và cũng là vị giáo sư toán của tôi thời
trung học. Tôi muốn nói đến Giáo Sư Nguyễn-Hữu-Dưỡng mà ở Nha-Trang hầu như mọi
học sinh ban Toán đều biết.
Thập niên 40, Thầy Dưỡng, cũng như Ba tôi, tham gia kháng
chiến chống Tây. Nhưng khi nhận ra chính sách lừa lọc, dối trá và dã man của
Việt Minh, Thầy Dưỡng và Ba tôi rời bỏ hàng ngũ Việt Minh, trở về Thành.
Sau năm 1975, Thầy Dưỡng thành lập cơ cấu phục quốc. Sự
việc bại lộ. Thầy Dưỡng bị Cộng Sản Việt Nam bắt và bị tra tấn rất tàn bạo. Ba
tôi, sau khi mãn tù, đã vào nhà tù Nghĩa-Phú thăm người bạn xưa. Khi thấy tình
trạng sức khỏe của Thầy Dưỡng quá suy sụp, Ba tôi hỏi nhỏ: “Dưỡng! Mày nghĩ
như thế nào về những việc mày đã làm?” Thầy Dưỡng đáp: “Tao không bao
giờ hối hận về bất cứ điều gì tao đã làm. Có điều, nếu những việc tao làm mà
chỉ để lập lại ‘cái đã mất’ năm 75 thì tao không làm”.
Vâng, đúng như Thầy của tôi đã khẳng định: “Cái đã mất”
năm 1975 không phải cái nào cũng đáng tiếc và đáng quý. Và chính trong Hồi Ký
Hành Trình Người Ði Cứu Nước, ở nhiều đoạn, tác giả Phạm-Hoàng-Tùng cũng đã
mạnh dạn vạch ra những cái không đáng quý, không đáng tiếc trong “cái đã mất”
năm 75.
Theo tôi nghĩ, cái đáng tiếc và đáng quý nhất trong “cái
đã mất” năm 75 là sự hy sinh oan uổng của không biết bao nhiêu thanh niên miền
Nam. Và, theo sự cảm nhận cũng như những điều được tác giả Phạm-Hoàng-Tùng ghi
lại trong Hành Trình Người Ði Cứu Nước, tôi nghĩ rằng sự hy sinh mạng sống và
tuổi trẻ của những Khánh-Chiến-Quân cũng là một sự oan uổng! Chúng ta nên ghi
nhớ và đề cao.
Trong vài đoạn tác giả có vẻ tiếc cho sự thất bại của một
tổ chức kháng Cộng quy mô nhất của tập thể tị nạn mà tác giả đã đặt trọn niềm
tin cũng như đã dấn thân theo đuổi – dù tác giả biết rõ rằng: “Ðường cách
mạng chỉ có một chiều: Giải phóng hay là chết!” (Trang 474)
Nhiều đoạn tác giả diễn tả lại các trận đụng độ nặng giữa
vài đơn vị Kháng Chiến với Việt Cộng và những cái chết tuyệt “đẹp”, tưởng chỉ
thấy-được-trong-phim-ảnh, của các vị chỉ huy trực tiếp và sau hết là của toàn
Ban Lãnh Ðạo Mặt Trận, khiến tôi ngậm ngùi thán phục! Nhưng cũng có nhiều đoạn
khiến tôi đau lòng, phải dừng lại trong phút giây rồi mới đủ can đảm đọc tiếp;
vì tính chất bi phẫn đến cùng cực của sự việc do tác giả thuật lại. (Trang 492,
493, 494...)
Cũng có nhiều đoạn tác giả viết về những vấn đề khác.
Nhưng tôi nghĩ, tất cả những vấn đề đó đều quá nhỏ nhoi và tầm thường so với sự
dấn thân, sự hy sinh và những cái chết tức tửi, oai hùng của những chàng trai
nước Việt như Nguyễn-Huy, Lưu-Minh-Hưng, Huỳnh-văn-Tiến, Lê- văn-Long,
Trần-văn-Ðực, Nguyễn-vĩnh-Lộc, Nguyễn-Hoàng v.v… Xin quý vị hãy nghe đoạn văn
ngắn này để ngậm ngùi, kính phục những người con ưu tú của Mẹ Việt-Nam: “...Còn
chiến hữu Võ-Hoàng, khi thấy chiến hữu Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh tự sát, đã nói:
‘Tôi không thể chết, tôi phải là nhân chứng cho sự hào hùng và bi thảm này!’ Nhưng
khi Võ-Hoàng vừa bò lên khỏi vách suối thì bị trúng nguyên một trái đạn M79 vào
đầu...” (trang 662)
Ngoài những điều như tôi đã nêu ở phần trên,
Phạm-Hoàng-Tùng còn làm ray rứt lòng người đọc bằng những đoạn viết về những ý
nghĩ thầm kín của anh, một thanh niên trẻ, sống xa gia đình, và sống lâu trong
rừng sâu núi thẳm: “Nét yểu điệu của phái nữ như có sức cuốn hút lạ lùng. Ý
nghĩ tôi lại xa thoát thực tại trong phút chốc. Một chút gợi nhớ gì đó trong
tôi về không gian bình yên xa vắng lâu rồi, một chút luyến tiếc hương vị nồng
nàn, êm đềm nhiều cám dỗ của quá khứ ấm cúng gia đình...”(Trang 568) Và rồi....
“Buổi chiều đó, sau khi được tháo còng để ra giếng và ăn cơm tù. Lúc người bộ
đội chưa tới phòng giam còng chân tôi lại như mọi khi, tôi tiến đến gần cửa sổ
ngôi nhà sàn, có chiếc ghế cũ, chậm chạp ngồi xuống đấy, toàn thân như mềm mại
hơn, hướng cặp mắt mệt mỏi, u buồn nhìn ra dòng sông Mekong trước mặt. Dòng
nước chuyển dịch im lặng nhưng tràn sức mạnh, nó đang hướng về quê hương tôi
tận bên dưới kia. Dòng Mekong vẫn chảy như nó đã chảy tự bao giờ, hằng trăm năm
trước đây, khi không có tôi nơi đây cũng như không có những con người mà tôi được
biết, được nghe nói, được chỉ dạy là đồng bào của tôi mà lại giam cầm tôi như
một sinh vật mang chứng bệnh cần tránh xa, nếu có thể được, họ sẽ khai tử tôi,
sinh vật tù tội, ra khỏi cuộc sống phàm tục này.
Cảnh dòng sông im lặng giữa cái nắng nhạt dần của buổi
hoàng hôn đang đến chầm chậm nhưng trong lòng tôi lại dâng tràn cơn xúc động.
Những giọt nước mắt hiếm hoi tưởng chừng rất kiên nghị, ẩn sâu kín trong hốc
mắt như sẵn sàng chực ứa trào ra. Tôi biết chắc rằng đoàn quân Ðông Tiến sẽ bị
tiêu diệt trong nay mai! Nhưng khi nghe tin chiến hữu Chủ Tịch Hoàng-Cơ-Minh đã
nằm lại vĩnh viễn trong rừng sâu kia, bên cạnh những thanh niên trẻ – các chiến
hữu của tôi – từng nuôi ước mơ đẹp, hoài bão cao thượng, xây lại đời. Không
hiểu tại sao, trong tôi dấy lên nỗi niềm bi phẫn mênh mông, nói không thành
lời!...” (Trang
679)
Tác giả Phạm-Hoàng-Tùng cũng gián tiếp cho thấy rằng
không phải chỉ một mình anh mới mang trong lòng “nỗi niềm bi phẫn mênh mông”
mà các cựu Kháng Chiến Quân khác, ngay trong nhà tù Cộng-Sản, cũng vẫn lén lút
tổ chức ngày giỗ Chủ Tịch – Cố Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh – để có dịp nhắc lại
những chuyện đau lòng ngày trước! Ðiều này cho thấy, mặc dù lực lượng quân sự
của Mặt Trận đã tan rã, nhưng lý tưởng đấu tranh giải phóng đất nước và cái
chết oai hùng của cựu Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh cũng vẫn được nhiều cựu Kháng
Chiến Quân tưởng nhớ và tôn kính.
Kính thưa quý vị, nhân vật nổi bật nhất trong hai cuốn
hồi ký này không phải là tác giả Phạm-Hoàng-Tùng mà là Cố Phó-Ðề-Ðốc
Hoàng-Cơ-Minh, một sĩ quan cao cấp rất can trường, đạo đức cao và rất cứng rắn
– cứng rắn ngay cả với chính bản thân Ông – của Hải-Quân Q.L./V.N.C.H.. Nói lên
điều này không có nghĩa rằng tôi muốn đề cao Cố Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh vì tôi
thuộc vào gia đình Hải Quân, mà hầu như đại đa số quân nhân Hải Quân, từ Sĩ
Quan cho đến Thủy Thủ, đều nhận thấy, nhất là từ khi Ông đảm nhận chức vụ Tư
Lệnh Lực-Lượng Thủy-Bộ. Cứ mỗi khi đơn vị Thủy-Bộ nào đụng trận là thấy trực
thăng chở Tư Lệnh Hoàng-Cơ-Minh bay vòng quanh trận địa để điều động và chỉ
huy.
Tôi may mắn được biết Cố Phó-Ðề-Ðốc Hoàng-Cơ-Minh từ ngày
Ông còn là sĩ quan cấp Tá. Thời gian đó, đơn vị do Bố của các con tôi – cựu Hải
Quân Trung Tá Hồ-Quang-Minh – chỉ huy, có cùng hậu cứ tại Căn Cứ Hải Quân Rạch
Sỏi với Tư Lệnh Thủy-Bộ Hoàng-Cơ-Minh. Tôi thấy, mỗi khi vợ con của Ông từ
Saigon xuống thăm, đích thân Ông lái xe đi mua thức ăn về cho vợ con của Ông
dùng chứ Ông không bao giờ nhờ tài xế hoặc các anh cận vệ.
Vào tháng 03 và tháng 04-1975, Phó-Ðề-Ðốc Hoàng-Cơ-Minh
được chỉ định giữ những chức vụ quan trọng như thay thế Tướng Phan-Ðình-Niệm ở
chức vụ Tư Lệnh chiến trường Bình-Ðịnh; và sau đó Ông được bổ nhiệm kiêm luôn
chức vụ Tổng Trấn Qui-Nhơn trong nhiệm vụ phối trí các lực lượng để đổ quân vào
tái chiếm Qui-Nhơn....(Theo Tài Liệu Lịch Sử Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975
của Điệp-Mỹ-Linh).
Và, khi Hạm Đội Hải Quân V.N.C.H. trên hải hành tiến đến
Subic Bay, có nhiều sĩ quan cao cấp Hải Quân khác điều động đoàn tàu; nhưng chỉ
có Cựu Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh túc trực 24/24 trên máy truyền tin để hướng dẫn
và điều động đoàn tàu. Nhiều vị Hải Quân vẫn còn nhớ, trong đêm khuya, giữa
sóng nước mịt mùng, khẩu lệnh của cựu Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh vang vang trên
máy truyền tin của một Hạm Đội vừa mất bến Mẹ nghe đậm đặc tính chất bi hùng!
Đến Guam, trại Orote Point, một buổi trưa, Bố của các con
tôi trở về lều, cho biết rằng cựu Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh bảo rằng Ông sẽ trở
về! Rồi anh lắc đầu, tiếp: “Ai chứ ông Hoàng-Cơ-Minh, hễ Ổng nói là Ổng
làm!”
Vâng! Cựu Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh đã thực hiện hoài bão
của Ông. Và cựu Phó-Đề-Đốc Hoàng-Cơ-Minh cũng đã chọn một cái chết rất hào
hùng!
Cái chết hào hùng của Ông Hoàng-Cơ-Minh cũng như của các
Kháng-Chiến-Quân trong hồi ký của Phạm-Hoàng-Tùng khiến tôi nhớ đến 3 cái chết
tưởng như không thật của cố Hải-Quân Trung Tá Ngụy-Văn-Thà, người đã chết theo
Hộ Tống Hạm Nhật Tảo, HQ10, trong trận hải chiến với Trung Cộng tại Hoàng Sa;
Cố Hải-Quân Thiếu Tá Lê-Anh-Tuấn, người đã tuẫn tiết trên chiến đỉnh, bên bờ
sông Vàm Cỏ đêm 30-04 rạng ngày 01 tháng 05-1975; và Cố Hải-Quân Thiếu Tá
Ðặng-Hữu-Thân, người đã thành lập tổ chức Phục Quốc, sự việc bị bại lộ,
Việt-Cộng bắt và xử bắn Ông tại trại tù A30!
Ai rồi cũng phải chết. Nhưng như Garnier đã nói: “Ai
chết cho quê hương thì sống đời đời.”
Riêng về tác giả Phạm-Hoàng-Tùng, sau khi đọc xong hai
cuốn Hồi Ký, tôi nghĩ, quý vị cũng sẽ như tôi, đều thấy rằng Phạm-Hoàng-Tùng
không những là một Kháng-Chiến-Quân, một nhà báo làm việc cho đài phát thanh mà
còn là một nhà văn chuyên nghiệp nữa; bởi vì chỉ có nhà văn chuyên nghiệp mới
đủ khả năng diễn đạt được những rung động thầm kín, sâu xa của mình để làm ray
rứt lòng người đọc. Tôi, sau hai đêm đọc xong hơn 900 trang sách, chữ nhỏ, lòng
cứ ray rứt, bồi hồi. Tôi tự hỏi tại sao với những dữ kiện sống thực như vậy mà
tác giả Phạm-Hoàng-Tùng đợi đến bây giờ mới phổ biến? Tại sao tác giả không
khai triển thành một trường thiên và dựng thành phim?
PĐĐ Hoàng Cơ
Minh
Những ai chưa đọc hai cuốn Hồi Ký này thì xin người đó
đừng kết tội Cố Phó-Đề-Đốc Hoàng Cơ Minh – về những lem nhem, lũng đoạn của tổ
chức Kháng Chiến tại Hoa Kỳ – và cũng xin đừng vội lên án Phạm-Hoàng-Tùng là
tay sai của Việt-Cộng, được Việt-Cộng thả tù sớm để viết sách làm hoang mang,
lũng đoạn và phân hóa cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Sự thật thì
Phạm-Hoàng-Tùng vượt thoát trại tù – sự kiện này không phải là hiếm hoi; bởi
vì, vài tù nhân chính trị, như Lý-Tống, như nhà văn Phụng-Hồng – tức Bác Sĩ
Quân Y Tạ-Thúc-Phú – cũng đã vượt thoát thành công chứ không phải một mình
Phạm-Hoàng-Tùng. Và, cũng trong hai cuốn Hồi Ký này, Phạm-Hoàng-Tùng đã vạch ra
nhiều tội ác của Việt-Cộng như xua thanh niên Việt-Nam xâm lăng các nước lân
bang.
Nói tóm lại, hai cuốn Hồi Ký này có thể ví như là một tác
phẩm điêu khắc hay là một xã hội thu hẹp. Tùy vị thế, nhãn quan và cảm quan của
mỗi người mà nhìn ra những nét đẹp, những nét hùng vĩ hoặc những dị dạng của
nó.
Riêng tôi, tôi đã nhận ra những nét hùng vĩ mà tác giả
Phạm-Hoàng-Tùng đã ghi lại; cũng như tôi đã biết được những sự kiện lịch sử rất
hào hùng nhưng không kém phần bi thảm về cái chết của cựu Phó-Đề-Đốc
Hoàng-Cơ-Minh và lòng quả cảm cùng sự hy sinh cao cả của những thanh niên cùng
thời đại với chúng ta.
Đến đây tôi xin dứt lời.
ĐIỆP
MỸ LINH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét