Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2011

Lẳng Lặng Mà NgheThiên Hạ Luận Bàn Chuyện Đất Nước

Việt Nam-lãnh thổ của Trung Quốc?

Song Chi.

Đọc những thông tin ngay trên báo chí chính thức của nhà nước Việt Nam thời gian qua mà cứ lấy làm lạ. Không hiểu các “trí tuệ đỉnh cao” trong Bộ chính trị và toàn bộ bộ máy cơ quan ban bệ từ trên xuống dưới làm việc, quản lý ra sao mà Việt Nam bây giờ cứ như là cái ao nhà, là lãnh thổ của Trung Quốc!

THƯƠNG NHÂN TRUNG QUỐC VÀO RA VIỆT NAM NHƯ CHỖ KHÔNG NGƯỜI

Từ chuyện thương lái Trung Quốc đến tận cảng cá, ao vườn… để thu gom nông hải sản từ chính tay những người nông ngư dân mà báo chí đã liên tục lên tiếng từ mấy tháng nay. Họ thu mua đủ loại từ cao su, thủy hải sản, trứng vịt, dừa, vải thiều, sắn lát, thịt gia cầm… cho tới các nguyên liệu gỗ, giấy, hồ tiêu…với giá cao hơn giá thị trường khiến cho các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh không lại, nhiều doanh nghiệp sản xuất phải lên tiếng kêu cứu vì thiếu nguyên liệu đầu vào. Bên cạnh việc nông dân vui mừng vì bán được giá cao hơn là những tai hại, rủi ro mà báo chí cũng đã vạch ra. “…đa số đều cho rằng sự quá phụ thuộc vào một thị trường, nhất là thị trường Trung Quốc, lại còn chủ yếu là xuất khẩu theo dạng tiểu ngạch đang chứa đựng nhiều rủi ro tìm ẩn. Ngoài ra, việc chạy theo nhu cầu bất thường của các thương nhân Trung Quốc sẽ dễ dẫn đến việc phá vỡ quy hoạch sản xuất của chúng ta. Và, việc thu gom ồ ạt của thương nhân Trung Quốc sẽ gây ra sự mất cân đối cung cầu cục bộ đối một số sản phẩm trong nước.

Những lo ngại này rất đáng quan tâm bởi trong quá khứ đã không ít lần nông dân Việt Nam đã phải ngậm “trái đắng”. Còn nhớ, những năm 2001 – 2002 nông dân và thương lái ở các tỉnh phía Bắc đã phải ngậm ngùi nhìn giá long nhãn rớt giá thê thảm từ 140.000 – 180.000 đồng/kg xuống còn 40.000 – 60.000 đồng/kg, thậm chí năm 2004, giá chỉ còn 10.000 – 20.000 đồng/kg. Cũng trong những năm 2004 – 2005, đứng trước việc thương lái Trung Quốc thu mua dưa hấu với giá khoảng 10.000 đồng/kg nên nông dân miền Trung đã ồ ạt trồng dưa hấu nhưng “kết quả” của niềm vui ấy là hàng trăm xe chở dưa hấu phải nằm lại và đổ bỏ ở cửa khẩu Lạng Sơn do không xuất được sang Trung Quốc.

Và rất nhiều ví dụ khác tương tự đều có nguyên nhân từ việc thu gom của thương nhân Trung Quốc như quả cau vào những năm 2007 – 2008, rau bắp non, tắc kè hay đỉa trong thời gian gần đây, … (“Bất ngờ từ việc Trung Quốc săn lùng nông sản VN”, báo SGTT).

Cũng trong bài báo này, tác giả đề cập đến một đặc điểm cũng rất đáng lưu ý là việc thương nhân Trung Quốc yêu cầu các sản phẩm của VN phải đóng gói, dán nhãn Trung Quốc “Như vậy, những sản phẩm do chính tay nông dân Việt Nam làm ra nhưng vẫn mang thương hiệu khác, điều này cho thấy các sản phẩm nông sản này cũng chẳng khác gì so với những mặc hàng gia công khác như may mặc, điện tử, phầm mềm, … Và khi đó, các sản phẩm chất lượng cao từ Việt Nam lại đang phải đành “núp bóng” dưới các thương hiệu Trung Quốc.

Nhưng trớ trêu thay khi các sản phẩm kém chất lượng có xuất xứ từ Trung Quốc như quả dâu tây và rất nhiều sản phẩm khác thì lại đang xuất hiện với các thương hiệu Việt Nam và được bày bán công khai tại thị trường Việt Nam!”

Xưa nay, người VN đã có những “kinh nghiệm xương máu” khi làm ăn với Trung Quốc. Họ không tôn trọng luật pháp, luật lệ quốc tế, cũng không tôn trọng sức khỏe của người tiêu dùng, chỉ nghĩ đến cái lợi của mình, trở mặt như chơi. Nếu các nước châu Âu mua hàng của VN, chắc chắn sẽ không có hiện tượng bắt VN phải dán nhãn của họ. Chưa kể, hàng hóa TQ từ lâu nay vẫn bị mang tiếng hàng dỏm, kém chất lượng, độc hại, bị nhiều nước tẩy chay. Nay với hiện tượng “tráo nhãn” như vậy thì chẳng bao lâu hàng VN cũng sẽ bị mang tiếng, bị tẩy chay. Nền kinh tế VN sẽ khốn đốn.

THUÊ ĐẤT, THUÊ RỪNG VN…

Gần đây, ở một số nơi thuộc tỉnh Vĩnh Long, có hiện tượng người Trung Quốc núp bóng dân địa phương thuê đất trồng khoai lang. Trả lời báo Dân Việt, bài “Người Trung Quốc thuê đất: chuyện không nhỏ”, “ông Nguyễn Văn Tập - Phó Trưởng phòng NNPTNT huyện Bình Tân cho biết: “Vùng nguyên liệu trồng khoai lang ở Bình Tân khoảng 6.000ha. Người Trung Quốc mới thuê với diện tích nhỏ nên chưa ảnh hưởng nhiều đến vùng trồng khoai lang ở địa phương. Tuy nhiên, về lâu dài nếu người Trung Quốc “núp bóng” người bản xứ thuê đất nhiều thì ảnh hưởng sẽ rất lớn.

Khi có diện tích đất lớn, họ có thể sẽ thao túng cả vùng trồng khoai lang. Hiện tại, hơn 70% sản lượng khoai lang ở địa phương đều xuất theo đường tiểu ngạch sang Trung Quốc với khoảng 400 tấn/ngày, nên chỉ cần họ ngưng xuất một vài tháng là nông dân không biết tìm đường đâu mà tiêu thụ.”

Còn ông Nguyễn Trần Bạt-Chủ tịch, Tổng Giám đốc Investconsult Group trong bài “Chuyên gia nói về hiện tượng người Trung Quốc thuê đất” (Báo Dân Việt) thì nhìn hiện tượng này là một sự tranh giành không gian sống, không những thế, “Đó là một hệ thống các hành vi. Như tôi đã phân tích, hệ thống các hành vi ấy có phải là âm mưu chính trị hay không hay nó chỉ là bản năng kinh doanh thông thường. Với một đà như thế này thì từ sản phẩm cho đến ruộng đất, từ đất canh tác công nghiệp là rừng cho đến đất canh tác cây lương thực đều có vấn đề cả. Vậy thì một người vô tâm cũng dễ dàng nhận thấy là có một chiến lược.

Chiến lược ấy có chất lượng như thế nào, có ý đồ sâu sắc như thế nào, có tham vọng lâu dài như thế nào thì buộc chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc…”

Lại nhớ đến chuyện VN cho các công ty Trung Quốc thuê rừng đầu nguồn tại một số tỉnh biên giới phía Bắc mà trung tướng Đồng Sĩ Nguyên và thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã gióng lên hồi chuông cảnh cáo vào đầu năm 2010.

Xét về mặt kinh tế, giá cho thuê rừng rẻ như bèo khiến dư luận không khỏi thắc mắc sao không cho các doanh nghiệp trong nước thuê cho an toàn? Bên cạnh đó, việc cho thuê rừng với một diện tích lớn (hơn 300,000 hecta), thời hạn lâu dài (50 năm), tại các tỉnh có vị trí xung yếu biên giới có nguy cơ lớn đến an ninh, quốc phòng Việt Nam như thế nào, đã được các vị tướng, những nhà chuyên môn lên tiếng. Báo Vietnam Net lúc đó đã đi cả một loạt bài phóng sự về việc các công ty thuê rừng đang làm gì tại những nơi này, và mọi người đều lạnh người khi nhận ra nguy cơ quá rõ ràng. Từ việc những vùng đất sau khi cho thuê trở nên “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, không ai biết họ thực sự đang làm gì trên đất rừng của ta, cho đến những vị trí mà họ thuê, có nhiều nơi từng là địa điểm rất quan trọng về mặt chiến lược trong cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc năm 1979!

Chủ quan, mất cảnh giác đến thế là cùng!

Sau khi dư luận lên tiếng, có thông tin phản hồi từ phía các giới chức ban ngành liên quan rằng sẽ rà soát lại sự việc và xử lý! Chả biết đến nay thì cái sự kiểm tra và xử lý này đến đâu rồi!

NGƯỜI TRUNG QUỐC CÓ MẶT Ở KHẮP NƠI

Người Trung Quốc có mặt ở VN ngày càng nhiều. Tại một số tỉnh sát biên giới Việt-Trung, người Trung Quốc qua lại làm ăn buôn bán, hàng Trung Quốc tràn ngập, có thể mua bằng tiền VN và cả bằng nhân dân tệ! Báo Giáo dục VN ngày 2.8 có bài “Mua cốc trà đá, trả bằng Nhân dân tệ” phản ánh ở Lạng Sơn, đi chợ mua hàng Trung Quốc, tiêu tiền Trung Quốc, “cứ như kiểu chợ Trung Quốc trên đất Việt Nam” vậy!

Mới đây, báo chí lại đồng loạt lên tiếng về hiện tượng người hàng ngàn lao động Trung Quốc trái phép đang có mặt ở VN!

Cách đây hai năm, vào tháng 4.2009, báo Tuổi Trẻ cho đăng loạt bài phóng sự-ký sự “Lao động nước ngoài đổ vào Việt Nam”. Phải nói là vào thời điểm đó loạt bài trên báo Tuổi Trẻ đã tạo hiệu ứng rất mạnh với dư luận bởi trước đó, đa số người dân vẫn chưa biết rõ về tình trạng có hàng chục ngàn người lao động Trung Quốc tràn sang Việt Nam như vậy, và bởi, những chuyện gì có dính dáng đến Trung Quốc vẫn thuộc loại “nhạy cảm” ở xứ này.

Hơn 2 năm sau, vấn đề người lao động Trung Quốc tại Việt Nam, một lần nữa lại nóng trở lại trên hàng loạt tờ báo từ Tuổi Trẻ, Thanh Niên, VNExpress, Dân Việt…cho đến BBC, RFA, RFI….Theo đó, người lao động Trung Quốc đang có mặt ở khắp mọi nơi, từ công trường nhà máy đạm ở Cà Mau, tại 2 dự án xây dựng nhà máy alumin ở Tây Nguyên, các nhà máy điện ở Quảng Nam, khu công nghiệp tỉnh Long An v.v…Chiếm tỷ lệ không nhỏ trong số đó là lao động không phép và lao động phổ thông, không có tay nghề.

Đây là hệ quả của việc lâu nay các công ty Trung Quốc thường trúng thầu rất nhiều dự án lớn ở Việt Nam. Cũng theo báo chí, có đến 90% các gói thầu trọn gói EPC (Engineering/ Procurement/Construction) thực hiện theo phương thức chìa khóa trao tay đã thuộc về các công ty Trung Quốc, phần lớn là các dự án năng lượng, luyện kim, hóa chất. Và khi triển khai thực hiện, các nhà thầu Trung Quốc thường đưa người của họ sang Việt Nam làm việc. Không chỉ kỹ sư, nhân viên kỹ thuật có tay nghề cao, mà cả công nhân làm những công việc lao động phổ thông.

Như vậy, khi Trung Quốc thắng thầu các công trình lớn, VN rõ ràng là bị thiệt đơn thiệt kép. Các công ty VN mất cơ hội thực hiện và cung cấp các thiết bị phương tiện cho quá trình thực hiện các dự án bởi vì các nhà thầu Trung Quốc thường xử dụng toàn bộ thiết bị của họ cho đến cái đinh, con ốc họ cũng mang từ Trung Quốc sang. Chất lượng công trình do nhà thầu Trung Quốc thường kém do bỏ thầu thấp, tiến độ thi công lại bị chậm, khiến VN bị thiệt hại về nguồn vốn vay rất lớn và gánh thêm nhiều chi phí rủi ro khác. Báo SGTT ngày 17.11.2010 đã từng có bài “5 dự án nhiệt điện chậm trễ và các nhà thầu Trung Quốc” gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế-xã hội, tình hình cung ứng điện trong nước. Thế nhưng, mới đây, một tổ hợp công ty của Trung Quốc lại tiếp tục trúng thầu xây dựng một nhà máy nhiệt điện chạy than ở tỉnh Trà Vinh với tổng vốn đầu tư lên khoảng 1.3 tỉ USD!

Người dân thì mất cơ hội có công ăn việc làm. Trong khi rất đông lao động trong nước đang thiếu việc, phải bôn ba đi ra xứ người để làm thuê qua các chương trình xuất khẩu lao động hàng năm của nhà nước-thực tế là một hình thức buôn nô lệ lao động và VN là một trong những quốc gia tai tiếng về vấn đề này.

Tình trạng người lao động Trung Quốc có mặt ở khắp mọi nơi trên đất VN còn đặt ra nguy cơ về an ninh, quốc phòng. Bài học Con ngựa thành Troie khiến nhiều người VN quan tâm đến vận mệnh đất nước không khỏi lo lắng.

Qua tất cả các mặt vừa nêu, người dân không khỏi tự hỏi những người lãnh đạo cao nhất và toàn bộ bộ máy cơ quan chính quyền cồng kềnh mà hơn 86 triệu nhân dân phải è lưng đóng thuế nuôi, họ làm việc, quản lý như thế nào mà để đất nước ra nông nỗi này?

Chính sự yếu kém trong điều hành quản lý về kinh tế, xã hội, tầm nhìn ngắn, thói quen “tư duy nhiệm kỳ”, cục bộ, cộng với sự ích kỷ, tệ tham nhũng, luôn luôn đặt sự tồn tại và quyền lợi của đảng, của chế độ, thậm chí, chỉ của những nhóm lợi ích... lên trên tất cả đã đưa đến hậu quả này. Việt Nam ngày càng bị lệ thuộc nặng nề vào kinh tế Trung Quốc. Để đe dọa Việt Nam, chưa cần đến quân sự, nhà cầm quyền Trung Quốc chỉ cần dở những chiêu trừng phạt, đánh phá về kinh tế là Việt Nam sính vính! Việt Nam bây giờ chẳng khác nào lãnh thổ của Trung Quốc, Trung Quốc tự do khai thác, vơ vét tất cả những gì có lợi, đưa người sang làm ăn rồi tìm cách ở lại, sinh sống lâu dài, mặt khác, VN lại biến thành một bãi rác để Trung Quốc tống tháo những mặt hàng kém chất lượng, hàng độc hại sang! Và nếu một ngày nào đó chiến tranh Việt Trung lại xảy ra, thì việc cài cắm hàng trăm cơ quan, công trường với hàng chục ngàn người Trung Quốc ở khắp nơi sẽ trở thành một sự lợi hại khôn lường!


Trao đổi với Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng về Nhân quyền.


Hôm nay ngày 2-9 là Tết Độc lập của người Việt nam chúng ta và cũng là ngày CT Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra Nước Việt nam DCCH. Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập có đoạn ghi rõ: “‘Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc’. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Nhưng điều đó đã bị các thế lực thù địch xuyên tạc, khi Tạp chí Nhân quyền Việt Nam, trong bài trên số đầu tiên, 10/2010, Hãy hiểu đúng về Nhân quyền VN của Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, khi đó là Ủy viên BCHTƯ ĐCSVN, Thứ trưởng Bộ Công an cho rằng: “Họ không thể mang quan điểm nhân quyền của nước họ áp đặt thành tiêu chuẩn cho Việt Nam. Mỗi quốc gia có bản sắc văn hóa riêng, có luật pháp riêng vì thế không thể lấy hình mẫu ‘nhân quyền’ của nước này đem sang nước khác được”.

Về vấn đề này, khi đó Kami đã có một bài phân tích cho đ/c Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, khi đó là Ủy viên BCHTƯ ĐCSVN, Thứ trưởng Bộ Công an nghe dưới dạng Bức thư ngỏ .
Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
*
Vừa qua tin nhà nước Việt nam xuất bản Tạp chí Nhân quyền đã gây chấn động dư luận trong và ngoài nước, bởi hai chữ nhân quyền vốn được coi là chiêu bài của các thế lực thù địch và phản động thường lợi dụng để tiến hành diễn biến hòa bình, lật đổ chế độ. Hôm nay tôi có được đọc bài viết ” Hãy hiểu đúng về Nhân quyền ở Việt nam” của đồng chí Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng, Ủy viên BCHTƯ Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương, Thứ trưởng Bộ Công an đăng trên Tạp chí nhân quyền Việt nam.
Bài viết của đồng chí Thượng tướng có thể tóm tắt các nội dung là muốn truyền tới bạn đọc vấn đề nhân quyền ở Việt nam khác với nhân quyền ở phương Tây và nhân quyền của người Việt nam chỉ gói gọn trong những nhu cầu tối thiểu của con người là mọi người dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.

Được biết dưới con mắt của cán bộ chiến sĩ trong ngành công an thì đồng chí Nguyễn Văn Hưởng là một trong bảy thứ trưởng của Bộ Công an thuộc dạng có học, có sự hiểu biết, được mọi người tin tưởng và tôn trọng. Tôi cũng là một trong những số đó, xong bản thân tôi sau khi đọc bài viết của đồng chí trên Tạp chí Nhân quyền Việt nam số đầu tiên, thì thú thực hơi thất vọng với sự tin tưởng của tôi đối với đồng chí Thượng tướng đã có từ rất lâu. Nhất là khi đọc tới đoạn viết dưới đây của đồng chí Thượng tướng, đã buộc tôi phải cầm bút viết vài dòng góp ý để đồng chí Thượng tướng rút kinh nghiệm (không viết thì sợ có lớp trẻ họ biết họ cười đồng chí Thượng tướng) trích “Vậy, thực chất vấn đề nhân quyền ở Việt Nam là như thế nào? Nhân quyền ở Việt Nam khác với nhân quyền phương Tây ở điểm gì? Và phải hiểu nhân quyền ở Việt Nam như thế nào cho đúng?”.

-
Trước hết về cơ bản thì tôi đồng ý với đồng chí Thượng tướng khi viết (“trích) Nói về nhân quyền ở Việt Nam, có lẽ không gì rõ ràng, đầy đủ và ngắn gọn hơn lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi trả lời các nhà báo nước ngoài vào tháng 1 năm 1946 : “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành…” Và lời khẳng định của Bác “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Nhưng trong toàn bộ đoạn trích trên đây của đồng chí Thượng tướng thì không hiểu đồng chí quên hay cố tình quên hai chữ tự do, mà đồng chí đã viết nhắc lại tới hai lần mà không hề phân tích, vì cái đó (tự do)theo tôi nó mới là cái quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
-
Hai chữ tự do ấy nó có giá trị gấp ngàn lần việc có cơm ăn, có áo mặc và được học hành như đồng chí hiểu, cái ăn, cái mặc là lẽ tự nhiên để con người sống và tồn tại, nó cũng như khí trời vậy thôi, mà bất kể động vật nào cũng phải có. Đó là lẽ tự nhiên, đối với con người có nhân cách và phẩm giá thì hai chữ tự do là niềm khát khao thiêng liêng mà cả nhân loại đấu tranh hàng ngàn năm nay mới có được, cái đó là mới là cái lớn nhất. Đó chính là lý do vì sao Hồ Chủ tịch khi sinh thời đã nói “Không có gì quý hơn Độc lập – Tự do”, điều đó đã được khẳng định dưới dòng chữ tên quốc hiệu đối với các văn bản hành chính và trong tập Ngục trung nhật ký, Hồ Chủ tịch đã viết “Đau khổ chi bằng mất tự do?” chứ Hồ Chủ tịch không nói đau khổ chi bằng không có cơm ăn, áo mặc, không được học hành…
-
Nếu còn chưa tin, xin mời đồng chí Thượng tướng bớt chút thời gian vàng ngọc để đọc bài Khám phá nhà tù “thiên đường” ở Na Uy , xem tù nhân của họ cũng có cơm ăn, có áo mặc, được học hành đầy đủ đàng hoàng, nhưng hạn chế duy nhất là học không có quyền tự do như những công dân bình thường. Đó là cái mà pháp luật dùng để trừng phạt những tội phạm.
-
Chúng ta cùng ngược lại thời gian trước khi Hồ Chủ tịch trả lời các nhà báo nước ngoài vào tháng 1 năn 1946, đó là ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba đình lịch sử, Hồ Chủ tịch đã đọc những dòng sau đây trong bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa (trích): “Hỡi đồng bào cả nước,
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
-
Theo quan điểm của Hồ Chủ tịch thì con người ta sinh ra đều phải bình đẳng, mọi dân tộc đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau, không phân biệt mầu da và tiếng nói. Vậy xin hỏi đồng chí Thượng tướng rằng đồng chí căn cứ vào đâu để cho rằng nhân quyền của các nước phương Tây không giống như nhân quyền của Việt nam, khi đồng chí Thượng tướng viết(trích) “Bản chất của vấn đề nhân quyền mà họ đưa ra là gì? Nếu xét về thể chế chính trị đó là một xã hội có nền chính trị đa nguyên, đa đảng. Và họ luôn luôn đề cao tự do cá nhân, nhân quyền là quyền không có biên giới, không bị phụ thuộc bởi chính trị, địa lý hay chủ quyền quốc gia…”.
Và khi đồng chí Thượng tướng đặt các câu hỏi “Vậy, thực chất vấn đề nhân quyền ở Việt Nam là như thế nào? Nhân quyền ở Việt Nam khác với nhân quyền phương Tây ở điểm gì? Và phải hiểu nhân quyền ở Việt Nam như thế nào cho đúng?” Điều đó cho thấy đồng chí Thượng tướng đã sai ngay từ khi đặt vấn đề của bài viết, cách đặt vấn đề như thế khác nào đồng chí cãi lại lời của Hồ Chủ tịch đã ghi trong Tuyên ngôn độc lập (trích) “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. (Vậy mà Bác Hồ nói đến hôm nay chúng nó còn cãi đấy!)

Xin lưu ý đồng chí Thượng tướng đừng quên rằng không phải vô tình mà trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chủ tịch đã trích dẫn từ Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791. Chúng ta có quyền hỏi rằng tại sao Hồ Chủ tịch không trích dẫn từ Tuyên ngôn của Quốc tế Cộng sản hay Tuyên ngôn của nhà nước Liên xô? Câu trả lời cho đồng chí và bạn đọc hiểu rằng sau chữ “Tự do – Bình Đẳng và Bác ái” chính là động lực thúc đẩy Hồ Chủ tịch đi tìm đường cứu nước để giải phóng dân tộc Việt nam thoát khỏi ách nô lệ của Thực dân Pháp. Đó chính là tư tưởng cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh theo đuổi hết cả cuộc đời để mang lại. Vì sao bây giờ đồng chí Thượng tướng lại quên nhanh như vậy? Đảng và nhà nước ta luôn phát động các phong trào học tập tư tưởng Hồ Chí Minh với những chi phí hết sức tốn kém, mà những người hô hào nhiều nhất kêu gọi mọi người tham gia học tập là những người như đồng chí Thượng tướng. Vậy mà tiếc rằng ở cương vị lãnh đạo thứ trưởng cấp Bộ mà điều tối thiểu trong tư tưởng của Hồ Chủ tịch sao đồng chí vẫn không hay?

Từ bình đẳng trong tiếng Việt là một tính từ để chỉ sự ngang hàng nhau về mặt nào đó trong xã hội, vậy tại sao đồng chí Thượng tướng nghĩ rằng người phương Tây khác người Việt nam, chủng tộc da trắng mắt xanh mũi lõ phương Tây có quyền cao hơn người phương Đông tóc đen, mũi tẹt da vàng? Tại sao đất nước ta đã độc lập tròn 65 năm mà tư tưởng nô lệ “sợ thằng Tây” vẫn còn rơi rớt trong đầu óc những người lãnh đạo nhà nước Việt nam như đồng chí Thượng tướng vậy?

Trở về vấn đề nhân quyền, hai chữ nhân quyền ở Việt nam hiện nay đã và đang bị nhà nước ta xuyên tạc, bóp méo và làm xấu đi rất nhiều trong suy nghĩ của người dân. Nhân quyền nói một cách đơn giản đó chính là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Mọi con người được sinh ra đều bình đẳng và được tạo hóa ban cho một số quyền không thể tước bỏ, như quyền sống, quyền tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc. Con người sinh ra hơn con vật ở chỗ con người có quyền của mình đã được khẳng định tại Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc.

Bản Tuyên ngôn này đã được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua và công bố vào ngày 10 tháng 12 năm 1948 và nước Cộng hòa XHCN Việt nam đã phê chuẩn và là thành viên từ năm 1982. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc là tuyên ngôn đưa ra một quan điểm về các quyền con người cơ bản như quyền sống, quyền tự do và an ninh thân thể, quyền tự do lập hội, quyền tự do tôn giáo, quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm,…

Theo bản Tuyên ngôn này thì Nhân quyền là một khuôn mẫu chung cần đạt tới của mọi dân tộc và quốc gia, nhằm giúp cho mọi cá nhân và thành phần của xã hội luôn luôn theo sát tinh thần của Bản tuyên ngôn, dùng sự truyền đạt và giáo dục, để nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này.

Điều khoản cuối cùng của bản Tuyên ngôn có viết “Không được phép diễn giải bất kỳ điều khoản nào trong Bản tuyên ngôn này theo hướng ngầm ý cho phép bất kỳ quốc gia, nhóm người hay cá nhân nào được quyền tham gia vào bất kỳ hoạt động nào hay thực hiện bất kỳ hành vi nào nhằm phá hoại bất kỳ quyền và tự do nào nêu trong Bản tuyên ngôn này”.

Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quyền chính là quy định chung của các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc, mỗi quốc gia khi đã đặt bút ký tham gia vào Công ước đó thì phải có trách nhiệm tuân thủ nghiêm túc và đầy đủ, bởi vì nó như một thứ luật quy định của một trò chơi cho bất kể quốc gia nào đã tham gia với tư cách thành viên. Khi Việt nam không tuân thủ đúng và đủ các điều khoản quy định của Công ước quốc tế này thì các quốc gia khác với tư cách thành viên đương nhiên họ phải có quyền nhắc nhở và buộc Việt nam phải thực hiện cho đúng và đầy đủ các điều khoản đã cam kết thì đó là chuyện quá đỗi bình thường.

Những điều kể trên phải chăng đồng chí Thượng tướng, Ủy viên BCHTƯ Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương, Thứ trưởng Bộ Công an không biết và không hiểu? Xong bản thân tôi không tin là như vậy!

Cũng xin được nhắc thêm đồng chí Thượng tướng cần xem lại bản Hiến pháp, nước CHXHCN Việt nam trong Chương V từ điều 49 đến điều 82 đã ghi rõ quyền và nghĩa vụ của công dân.

Xin trích ví dụ:
” Điều 69: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
Điều 70: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.

Hiến pháp là Luật pháp cao nhất của một quốc gia, Hiến pháp nước CHXHCN Việt nam cũng vậy. Để tránh dài dòng xin để đồng chí Thượng tướng tự nhận xét đánh giá rằng nhà nước ta dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN đã thực thi đúng và đủ những điều Hiến pháp quy định về quyền công dân (con người) hay chưa?

Chắc vì do quen thói thông tin một chiều, chỉ quen nói và không bao giờ có các thông tin phản biện ngược chiều nên có lẽ vì vậy mà đồng chí Thượng tướng hơi quá đà khi viết (trích) ” Nhà nước và Chính phủ Việt Nam đã tập trung sức lực của cải, tiền bạc bằng những chế độ chính sách cụ thể lo cơm ăn, áo mặc, nhà ở, trường học, bệnh viện, đầu tư trang bị cho mọi nhu cầu đời sống văn minh ti vi, rađiô, sách báo… tạo điều kiện cho bà con hòa nhập với cuộc sống cộng đồng quốc gia và quốc tế. Có lẽ trên thế giới chưa có chính phủ nào làm được việc này. Cách mạng là thế đấy.”

Chắc có suy nghĩ như vậy bởi đồng chí Thượng tướng mỗi lần đi ra nước ngoài đều ngồi trong xe hơi bọc thép, nên đồng chí không hiểu được cuộc sống của người dân ở các nước tự do dân chủ kể cả nhóm các dân tộc thiểu số họ được nhà nước quan tâm tới mức nào? Xin đồng chí Thượng tướng đừng quên rằng với GDP bình quân đầu người ở Việt nam mới xấp xỉ 1.000 USD/người xếp hạng 169/208 và sự chênh lệch giàu nghèo ở Việt nam khoảng cách quá lớn thì làm sao mà có chuyện (trích) “Có lẽ trên thế giới chưa có chính phủ nào làm được việc này. Cách mạng là thế đấy”. Câu này cho thấy đồng chí Thượng tướng thuộc dạng những người thích đùa không thì là lạc quan tếu.

Nói tóm lại khi đồng chí Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng với tư cách là một cán bộ lãnh cao cấp của đảng và nhà nước trong ngành Công an, đã làm cho tôi hơi bất ngờ trước bài viết của đồng chí. Toàn bộ bài viết trên của đồng chí Thượng tướng cho thấy 2 vấn đề cần suy nghĩ:

  • 1. Trình độ nhận thức về lý luận chính trị đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, về độc lập và tự do của đồng chí Thượng tướng còn quá nhiều lỗ hổng về kiến thức.
  • 2. Hoặc do đồng chí quá bận rộn, không có thời gian nên viết bừa viết ẩu theo đơn đặt hàng của Tạp chí Nhân quyền Việt nam, theo yêu cầu bưng bít sự thật viết cho xong để lấy tiền nhuận bút.

Hy vọng một số trao đổi ngắn gọn của tôi góp ý cùng đồng chí sẽ giúp đồng chí hoàn thành tốt các nhiệm vụ mà đảng và nhà nước trao cho trong giai đoạn cách mạng mới.

Chúc đồng chí khỏe, để đảm nhận và hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng trách được giao.

Xin gửi tới đồng chí lời chào Cộng sản.

Hà nội, ngày19/7/2010

-------------------------

*Đây là trang Blog cá nhân của Kami. Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á châu Tự do RFA

Comments

Ti'nh dây di Em

Em Kami thân mê'n !
Hãy ra ngay chợ Đồng xuân ma mua môt chai ruou manh về mà uô'ng cho ti'nh và sáng mắt ra vì bây gió dã trê'
Da'ng cs voi tu tuong Hô' chí minh dã tàn phá dâ't nuoc này nhiê'u lám rô'i .. Chang còn gi mà xây dung lai nuã ..
Dung viet và tô hô'ng cho cái xã hôi ac dôc nay nua .. Hay nhin lai doi rach cua nguoi dân ..do ai dã gây nên ? Kami .. Do' la thành qua' cu'a Bác và Dãng dây' a ! Muôn' ti'm hiê'u thêm hãy vào ca'c trai tu tu' nam 1975 ma xem thì biêt' thôi
chu'c Kami tiê'n bô và sáng mat thêm !
Nguyên Phuong Tha'o

Dân Nam (Hải ngoại)

Gởi bạn Kami và những người Miền Bắc còn theo cs.

Sau Đệ nhị Thế chiến, có 37 quốc gia Á Phi (kể cả VN) đã được phe Đế quốc/Thực dân trao trả độc lập. Thí dụ Phi luật tân, Singapore, Nam dương, Mã lai, Ấn độ, Brunei, v.v. Các quốc gia đó giành lại độc lập, thống nhứt mà không tốn giọt máu nào, tại sao vậy? Bỡi vì các lãnh tụ của họ lấy quốc gia, dân tộc làm gốc. Tổ quốc của họ chính là đất nước và nhân dân chớ không phải là lãnh tụ (bác), đảng và chủ nghĩa CSQT. Mọi người dân phục vụ, bảo vệ quốc gia dân tộc chớ không phải bảo vệ, phục vụ lãnh tụ (bác), đảng và chủ nghĩa cs. Đó là lý do tại sao họ khôn ngoan, giành lại độc lập mà không tốn xương máu.

Vì thế, sau khi Nhựt sắp bại trận, họ trả lại độc lập cho VN và chánh phủ dân sự đầu tiên Trần trọng Kim được thành lập ngày 17.4.1945. Nếu HCM không nổi lên cướp chánh quyền tháng 8/1945 thì nước ta đã được độc lập, thống nhứt và canh tân từ thời đó. Dỉ nhiên không có chiến tranh VN, và nước Việt đã giàu mạnh, có khi còn hơn nước Nhựt.

Sau Thế chiến thứ 2, Pháp cũng trao trả độc lập cho VN qua Hòa ước Vịnh Hạ Long, được vua Bảo Đại ký kết ngày 7/12/1947. VN được độc lập, thống nhứt theo hệ thống Liên Hiệp Pháp, giống như các quốc gia được đế quốc Anh trao trả độc lập theo hệ thống Liên Hiệp Anh. Nhưng một lần nữa, HCM bác bỏ giải pháp độc lập này, tiếp tục dùng bạo lực kháng chiến, dẫn đến trận Điện biên phủ, nướng dân đen một cách đau lòng và không cần thiết. Hàng trăm ngàn quân dân Việt chết để sau cùng Hồ được Pháp chia cho nửa nước!

Sau Hiệp định Geneve 1954, tức sau 9 năm kháng chiền, dân Việt chết thãm, mệt mỏi, chia lìa; nếu HCM thương dân, thương nước thì ông ấy đã để cho dân Bắc được nghỉ ngơi, sống những ngày hòa bình, xây dựng Miền Bắc. Để cho dân Nam được tự do xây dựng Miền Nam, giống như Trung cộng & Đài loan, Đông Đức & Tây Đức, Bắc Hàn & Nam Hàn, thì không có chiến tranh VN, dân hai Miền không chết thảm và hai miền đất nước được giàu mạnh chớ không phải là nô lệ Tàu, làm bãi rác của Á châu như VN ngày nay.

Nhưng Kami ơi! HCM nào có thương nước thương dân; tổ quốc của ông ta là CSQT, tổ tiên của ông ta là Mác, Lê, Stalin và Mao. Cho nên ngay sau 1945, HCM đã theo lệnh Mao mở ra trận cải cách ruộng đất, giết thêm hàng trăm ngàn dân Bắc, và sau đó đưa hàng triệu thanh niên Bắc nướng vào lửa đạn trường sơn để đánh giết dân Nam cho đến người Việt cuối cùng, làm quà dâng lên cho CSQT và bác Mao của nhà Hồ.

Đó là những sự thật mà Kami và những người cs Miền Bắc dù có muốn bao che cho Hồ và cộng đảng Bắc Việt cũng không thể nào chứng minh ngược lại được! Đau khổ và nhục nhã nhứt là nửa nước này nhắm mắt theo Hồ và cs, quyết tâm đánh giết nửa nước kia để ăn cướp của chính đồng bào đồng loại. Để cả hai miền cùng chết, và sau cùng thì Hà nội quì gối, dâng đất, biển, đảo, rừng cây, hầm mỏ, khu phố cho Tàu. Từ từ biến VN thành một tỉnh của Tàu để Hồ và đảng cs VN thành thái thú và dân Việt kể cả con cháu của cs Việt trở thành nô dịch cho Hán tộc. Con đường đó đã và đang diễn ra; 10 năm nửa VN chỉ còn trên danh nghĩa, nhưng dân Việt đã được Tàu thuần hóa thành nô lệ Tàu. Hoàn thành cái mộng CSQT của HCM và đám tay sai Hà nội vậy!

Cho nên việc HCM quay cóp bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ, với các nguyên tắc Nhân quyền với Tự do, Dân chủ, Công bình là chỉ để dễ lừa bịp, che đậy dã tâm phục vụ CSQT mà thôi. Vì vậy, Kami mượn lời nói (dối) của HCM để hù Nguyễn văn Hưởng thì cũng chính Kami tự dối lòng. Bỡi Kami có thấy trên thế giới làm gì có quốc gia nào theo cộng sản mà có Tự do, Dân chủ và Công bình đâu. Chủ nghĩa cộng sản chủ trương không chấp nhận đối lập và bao dung. Giống như Hồi giáo không chấp nhận và bao dung đối với các tôn giáo khác vậy! Vì lẽ đó mà người dân (kể cả người cs yêu nước) trong khối cs Liên xô và Đông Âu đã tự đứng lên làm cách mạng nhung, đem lại Tự do, Dân chủ và Công bình thật sự cho dân tộc họ.

Chứng minh rõ nhứt về bản chất lừa dối, ác tâm của HCM là là lợi dụng cao trào kháng chiến chống Pháp để thành lập tổ chức Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Minh) gồm nhiều phe phái yêu nước tham gia. Sau đó Hồ âm thầm cho đàn em sát hại, thủ tiêu các phe đối lập; kể cả mật báo, chỉ chọc cho Pháp bắt, Hồ còn bán đứng cụ Phan chu Trinh cho Pháp để lãnh thưởng. Mục tiêu của Hồ là gom người Việt yêu nước không cộng sản vào Việt Minh để Hồ dễ tàn sát, tiêu diệt và độc quyền "yêu nước" thực hiện mục tiêu cộng sản hóa Việt Nam và Đông dương theo lệnh Nga Tàu. Ngay cả trước 1954, Hồ cho thành lập thêm hai đảng Dân chủ, Xã hội để che mắt thế giới, nhưng thực chất hai đảng đó cũng bị nắm bỡi đảng viên cộng sản (thí dụ Hoàng minh Chính) do Hồ chỉ định để phục vụ Hồ và cộng đảng mà thôi.

Tôi có ông bạn thân gốc Bắc di cư 1954, cùng học Sư phạm ở Sài gòn, về thăm quê Miền Bắc năm 2009, kể câu chuyện. Buổi chiều, đi dạo bờ hồ Hoàn Kiếm, anh bạn này gặp cụ già hơn 80 tuổi còn tráng kiện. Sau khi chào nhau, hai bên trao đổi như sau :

Anh từ nước ngoài về thăm quê?

Thưa vâng, cháu từ Úc về.

Thế thì tốt lắm. Nếu anh từ Mỹ về, chúng tôi ghét lắm!

Sao thế cụ? Có phải tại Mỹ là đế quốc, ném bom Miền Bắc làm chết đồng bào ta?

Không phải thế. Chúng tôi ghét Mỹ vì chúng nó chỉ làm nửa vời rồi bỏ đi. Nếu chúng nó tiếp tục dội bom Miền Bắc thêm vài tháng nửa thì Miền Bắc đã được giải phóng, gia đình tôi không phải sống với cs và có được những ngày tự do như các anh trong Nam trước năm 1975 và như đồng bào VN ở nước ngoài hôm nay!

Mấy hôm sau, anh bạn về làng quê, chỉnh trang mồ mã tổ tiên. Nhân nói đến chuyện dân chủ thì ông anh bà con tuổi 70 của bạn tôi, may mắn sống sót sau cải cách ruộng đất nói rằng:"Các anh trong Nam và bà con ta ở nước ngoài chỉ mơ mộng thôi, các anh có biết là cộng sản chủ trương chuyên chính, độc quyền toàn trị và không bao dung. Cộng sản VN chia con người ra làm 4 giai cấp, theo thứ tự từ cao xuống thấp : Bác(Lãnh tụ), Đảng, Nhân dân và quần chúng.

quần chúng thì không cần viết hoa. quần chúng là giai cấp thấp nhứt. Họ không có quyền mà chỉ có bổn phận hy sinh tánh mạng, hy sinh công sức, hy sinh tài sản, hy sinh mồ hôi nước mắt, còng lưng làm việc nuôi dưỡng, bảo vệ Nhân dân. Khi cần chết thì quần chúng phải chết, thí dụ bà Nguyễn thị Năm và hàng trăm ngàn dân Bắc thời cải cách ruộng đất và dân Miền Nam các anh sau 1975.

Nhân dân gồm vợ chồng, con cháu, bà con của Đảng (viên) và những người ăn theo Đảng. Nhân dân là tai mắt của đảng, có quyền thu góp của quần chúng nuôi thân, hưởng thụ và dâng lên nuôi Đảng.

Đảng nắm quyền sanh sát; qua tay quần chúng thu gom, giúp cho Đảng viên càng ngày càng mạnh, càng giàu, càng mập để dâng thành quả chiến thắng hay thành quả ăn cướp hoặc thành quả kềm kẹp lên làm quà cho Bác (Lãnh tụ).

Bác (Lãnh tụ) là bậc tối cao, làm biểu tượng để thờ, làm kim chỉ nam cho Đảng độc quyền tự do cai trị và ăn cướp, hết thế hệ này đến thế hệ khác, như lời "ông cụ" nói: Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi là để ám chỉ 4 giai cấp trên chớ không phải dân chủ, độc lập, tự do, hạnh phúc mà các anh thường nghe thấy đâu!"

Qua câu chuyện và sự thật lịch sử trên, nếu Kami và bà con Miền Bắc thật lòng muốn có Tự do, Dân Chủ, Công bình và Hạnh phúc thì không có cách nào khác hơn là đứng lên, kêu gọi Miền Bắc làm tiên phông, tự làm cuộc cách mạng nhung như Đông Âu và Liên xô, bỡi "cộng sản không thể thay đổi, chỉ có thể thay thế" mà cựu Tổng thống Nga Yelsin, cũng là người cs, đã làm và đã nói như vậy. Ngày nào Miền Bắc còn ôm lấy HCM, cờ đỏ, đảng và nhà nước cs, là 4 biểu tượng tham lam và ác ôn, để được an phận, làm giàu, chết ai nấy chịu thì không bao lâu nữa VN chắc chắn sẽ thành nô lệ nhà Hán. Lúc đó có muốn tự cứu, e rằng đã trễ!

Dân Nam
Hải ngoại

http://www.rfa.org/vietnamese/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét