Đã đến lúc phải xóa món nợ ân oán giang hồ!
Vũ Cao Đàm
Tôi nảy ý định viết ra ý tưởng này từ lúc đọc lại bài khai bút đầu năm của anh Bút Chẳng Tà, trong đó có nhắc đến ngày Trung Cộng khởi chiến, tấn công quân đội Việt Nam Cộng hòa để xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa. Bài viết đưa lên mặt báo Bauxite Việt Nam trong khi trên trang mạng của Trung Cộng vẫn còn nhan nhản những bài chửi bới với giọng điệu của một kẻ cả vô giáo dục nhằm vào “Bọn Việt Nam vong ân bội nghĩa”, và kêu gào phải giết bọn “Việt Nam lòng lang dạ sói”, lấy máu “giặc Việt” để làm lễ tế thần cho trận chiến thu hồi Nam Sa.
Trong khi đó thì chúng ta lại vẫn thường nghe một số quan chức, và cả bạn bè, cố gắng phân trần, rằng nhân dân Việt Nam “Không bao giờ quên ơn Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Cộng”, làm như đây là món nợ truyền kiếp, mà người Việt chúng ta phải đời đời khắc cốt ghi xương.
Tôi được đọc khá nhiều bài viết, với lập luận rất hay rằng, với việc lợi dụng chiến tranh Việt Nam, đục nước béo cò thôn tính Hoàng Sa, rồi phát động đại quân tấn công ào ạt toàn tuyến biên giới phía bắc, Trung Cộng đã xóa xong món nợ ân nghĩa đã giúp Việt Nam trong hai cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đọc xong, thú thật tôi vẫn cứ phân vân,… phải chăng là Trung Quốc đã giúp Việt Nam thật sự với tinh thần nghĩa hiệp của anh hàng xóm mang nặng trong lòng mối tình láng giềng “môi hở răng lạnh”, “tắt lửa tối đèn có nhau”… Có vị thuộc thế hệ đàn anh khả kính còn đưa thêm cứ liệu lịch sử để nói rằng Việt Nam cũng đã đưa quân sang để đánh quân đội Tưởng Giới Thạch, mở một mặt trận từ phía Nam để hỗ trợ Mao Trạch Đông trong cuộc chiến Quốc – Cộng . Và như thế cũng góp phần xóa xong cái món nợ mà Trung Cộng đã dành cho Việt Nam.
Về một mặt nào đó, tôi đôi lúc có ý tán thành quan điểm của các vị đã nêu lên những sự kiện này. Tuy nhiên, tôi lại suy nghĩ theo một hướng khác. Đúng, đã đến lúc người Việt Nam chúng ta phải nhìn nhận lại, phải thanh toán món nợ ân oán giang hồ này, xem thử chúng ta phải ôm trong lòng cái “công ơn trời biển” mà bọn đế quốc Trung Cộng đã “ban phát” cho dân Việt Nam “lòng lang dạ sói”, hay là phải nhìn thẳng vào cái bộ mặt lòng lang dạ sói của chính bọn đế quốc Trung Cộng, để từ đó chọn một con đường hành xử cho phù hợp lợi ích của dân tộc ta.
Không cần tra cứu nhiều, chẳng cần ghi cụ thể các trích dẫn như một tiểu luận khoa học, chúng tôi cho rằng, người Việt chỉ cần ở thế hệ thiếu niên trong cuộc chiến tranh Việt Nam 1954-1975, cũng đã được nghe ngày ngày những lời tuyên bố mạnh mẽ trên các phương tiện truyền thông, như, Việt Nam là tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa (XHCN). Không những vậy, thơ ca Việt Nam hồi đó cũng đã được biết đến bài thơ của Tố Hữu nhận định cái sứ mệnh cao cả của dân tộc ta là chiến đấu cho việc thực hiện lý tưởng cộng sản của Marx trên toàn thế giới: Trong bài thơ Miền Nam đưa lên mặt báo ngày 14/12/1963, Tố Hữu viết: “Ta vì ta ba chục triệu người /Cũng vì ba ngàn triệu trên đời /… và rồi… /Vui gì hơn làm người lính đi đầu /Trong đêm tối ta làm ngọn lửa”. Điều đó đã khơi dậy lòng tự hào cao cả của cả một thế hệ, bởi sự hy sinh này là vì “cuộc chiến đấu cho mục tiêu giải phóng nhân loại của phong trào cộng sản quốc tế”.
Cũng chính trong thời gian này, chúng ta không khó khăn tìm lại trên báo chí Trung Cộng, là họ đã liên tục phát động các phong trào rầm rộ chi viện Việt Nam chống Mỹ, tâng bốc Việt Nam là người lính xung kích anh hùng thời đại, với những tuyên bố rung động lòng người: “Đụng đến Việt Nam là đụng đến Trung Quốc”, và sẵn sàng đưa quân vào “kề vai sát cánh” chiến đấu bên cạnh các “đồng chí” Việt Nam… Cho đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh “cảm ơn” các “đồng chí” Quân Giải phóng Trung Cộng đã hoàn thành sứ mệnh “quốc tế vô sản cao cả”, và mời các đồng chí về nước, thì người dân Việt Nam mới tá hỏa ra, được chứng kiến, các “đồng chí” đập phá tan hoang đồ dùng mà dân Việt Nam chu cấp cho các “đồng chí” trong thời gian lưu trú. Dân Quảng Ninh, dân Hà Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay) còn chứng kiến, cái gì không đập phá được, chẳng hạn, bể nước xi măng, chum vại,… của dân, thì các “đồng chí” đã xả hết của quý từ cái bụng “lòng lang dạ sói” của cả đoàn quân Tàu Ô cộng sản vào đó. Khi các “đồng chí” đi khỏi thôn bản rồi, thì cái của quý kia mới lan tỏa cái mùi “khai hóa cộng sản kiểu Tầu”… thối um khắp nơi. Thế mà không thấy các “đồng chí” lãnh đạo của cái hội “Bốn tốt” và “Mười sáu chữ vàng” bốc thơm cái “công ơn” ấy. Còn dân Việt Nam ở Hà Bắc thì đến nay vẫn còn nhớ, đã được thưởng thức tư cách… bốc mùi… của đạo quân Tàu Ô của giai cấp vô sản “đàn anh”, “Mười sáu chữ vàng” như thế nào!
Đã đến lúc, người “đồng chí quốc tế vô sản” Việt Nam phải tính sổ ân oán giang hồ với cái đảng “quốc tế vô sản” Đại Hán. Chính báo chí và các nhà lãnh đạo Trung Cộng đã nói rất nhiều lần, rằng người Việt Nam cầm súng chiến đấu là để bảo vệ phe XHCN và bảo vệ chính đất nước Trung Hoa và các nước thuộc “phe XHCN”, nhằm giam chân người Mỹ không cho vượt biên giới phía Nam để tấn công Trung Quốc và khối XHCN,… để Trung Quốc được sống trong an bình, phục hưng Trung Hoa thành một đế quốc cộng sản hùng mạnh, đủ sức đối đầu với Mỹ trong vai trò bá chủ thế giới.
Mấy tuần vừa qua, nhân kỷ niệm các ngày 19/8 và 2/9, chúng ta bồi hồi xem lại trên các đài VTV không khí đầy sôi động của những ngày mùa thu năm 1945. Tôi nhớ lại, khi đó bố tôi đang là một nhà giáo, ăn lương của Nhà nước Pháp, nhưng ông đã từ giã cuộc sống êm đềm và đầy tiện nghi của thành phố, nhà trường và học sinh của mình để đi vào với cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc với tất cả bầu nhiệt huyết của thanh niên Việt Nam thời đó. Tôi may mắn có cơ hội được chứng kiến một lớp người như bố tôi, cùng với bạn bè giáo giới và học trò của ông, với tư cách là những trí thức thời đó, đã hăm hở đi vào công cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ra sao…
Nhưng rồi, cũng chính tôi đã chứng kiến, bắt đầu từ năm 1950, sau Chiến thắng biên giới với trận đánh lịch sử công phá cứ điểm Đông Khê (Cao Bằng), Việt Nam đã mở thông với một hậu phương lớn là Trung Hoa và thế giới XHCN. Kế sau đó là lúc Đảng Cộng sản Việt Nam xuất hiện trở lại với tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam, và những tuyên bố công khai về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cuộc chiến trên đất Việt Nam từ đây chính thức mang màu sắc một cuộc chiến tranh ý thức hệ, vì một cuộc đấu tranh cho “lý tưởng vĩ đại Ai thắng Ai” trên quy mô toàn thế giới.
Dân tộc Việt Nam bị chia rẽ cũng chính từ đây. Hàng loạt người bỏ chiến khu trở về thành phố cộng tác với Chính phủ Bảo Đại. Họ nói công khai là trở về xây dựng thể chế chính trị “quốc gia” do Cựu hoàng Bảo Đại chủ xướng. Những người kháng chiến xem Chính phủ Bảo Đại là bù nhìn của Pháp, nhưng trên thực tế, ngọn cờ chủ nghĩa quốc gia của ông đã có sức lôi kéo mạnh mẽ đối với một tầng lớp đông đảo những người không ưa chính thể cộng sản, chứ không chỉ những người có ân oán với cộng sản và mang lòng hận thù chống cộng. Lịch sử đã chứng kiến, bên cạnh những vị nhân sĩ trí thức ra chiến khu đi theo Chính phủ Hồ Chí Minh kháng chiến, cũng có rất nhiều nhân sĩ nổi tiếng không nhận lời cộng tác với Chính phủ Hồ Chí Minh. Nhiều bạn bè của bố tôi nhắn lời khuyên bố tôi về cộng tác với Chính phủ Bảo Đại, nhưng bố tôi “kiên định lập trường cách mạng”, đi với kháng chiến đến cùng. Bởi vì, bố tôi cũng thuộc về phía những người không muốn từ bỏ kháng chiến quay về thành phố để bị mang tiếng là “cầu an, hưởng lạc” và “bán nước cho Pháp”. Sự chia rẽ dân tộc càng mạnh mẽ với phong trào cải cách ruộng đất, và sau đó là công cuộc cải tạo công thương nghiệp theo kiểu phi nhân tính của các nước “XHCN đàn anh”, mà đại biểu gần gũi nhất, là chính thể cộng sản Trung Hoa.
Hệ thống XHCN đã sụp đổ. Các quốc gia XHCN còn lại cũng đã từ bỏ thể chế kinh tế của Lênin, quay trở lại với hệ thống kinh tế thì trường. Nước XHCN “đàn anh” Trung Cộng đang ngày càng lộ mặt một tên đế quốc hung hãn nhất thời đại, đang ngày càng lún sâu vào con đường phát xít hóa.
Hệ thống XHCN đã tan rã, sứ mệnh Việt Nam trong vai trò “tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa” đã lùi vào lịch sử.
Chúng ta không thể nói “giá mà” với lịch sử, nhưng ta có thể lựa chọn con đường cho tương lai. Lịch sử là lịch sử, vai trò “tiền đồn” đi vào lịch sử cũng có nghĩa, những “món nợ” vì thực hiện nghĩa vụ “tiền đồn” cũng đi vào lịch sử. Tôi vừa viết bài trên Bauxite Việt Nam: Còn níu kéo gì, khi tên đế quốc cộng sản Đại Hán đã trút bỏ cái mặt nạ “anh em”, “đồng chí”? Tiếp đó là một bài viết họa theo câu ngạn ngữ Pháp Dis moi qui tu fréquentes et je te dirai qui tu es (Hãy nói cho tôi biết, anh hay qua lại với ai, tôi sẽ nói cho anh biết, anh là người thế nào).
Các bạn đừng hiểu là tôi đả kích lịch sử. Không, tôi nâng niu lịch sử của đất nước tôi, như với mọi người thân của chúng ta, chúng ta yêu cả cái dễ thương và cả cái dễ ghét của họ. Lịch sử có thể có cái sai lầm của lịch sử. Khi người ta nói Lênin đã mắc những sai lầm lịch sử, thì cũng nên nhớ rằng, một mình Lênin không thể làm nên lịch sử, mà có cả một bộ phận của xã hội bị cuốn theo Lênin… Cả một trào lưu của xã hội. Mỗi người chúng ta vừa là nạn nhân, song cũng vừa là một tội đồ của cả một trào lưu lịch sử. Chỉ có điều, chúng ta phải nhìn ra những sai lầm ấy.
Một bộ phận dân tộc Việt Nam đã lựa chọn và tự hào làm “tiền đồn” của phe XHCN. Nay hệ thống XHCN đã đi vào lịch sử, chỉ còn lại những kẻ hiếu chiến, như kiểu Trung Cộng, muốn tiếp tục sự nghiệp bành trướng của cha ông họ. Chúng ta không thể níu kéo tiếp tục cái đã đi vào lịch sử.
Hãy tỉnh táo, không mộng mị quẩn quanh với cái “tình cảm tri ân” của lịch sử. Nếu cứ nhắc nhở người Việt Nam chúng ta phải tri ân kẻ đã viện trợ cho Việt Nam để thực hiện vai trò “tiền đồn” của phe XHCN… Vậy ai sẽ đền ơn cho dân tộc Việt Nam đã đổ một núi xương biển máu để làm “tiền đồn” bảo vệ cho cái hệ thống XHCN đã vĩnh viễn đi vào lịch sử ấy?
Nói đến đây, chúng ta không thể không nói đến một nửa phía bên kia của đất nước Việt Nam. Phía ấy là Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Phía ấy lại là một tiền đồn nữa: Tiền đồn của phe chống Cộng thế giới. Phe ấy mong muốn ngăn chặn con bài đô-mi-nô cộng sản tràn xuống Đông Nam Á, thực hiện ý đồ nhuộm đỏ phần còn lại của thế giới này. Những anh em cùng huyết thống Việt Nam trấn hai “tiền đồn” của hai bên đối địch nhau trên quy mô toàn thế giới. Tôi chưa đọc được tài liệu nào của Mỹ kể ơn đã chi viện VNCH, như Trung Quốc đã kể ơn với những người cộng sản Việt Nam. Nhưng giả dụ người Mỹ kể ơn, thì câu chuyện sẽ lại là: Vậy ai đền cho xương máu của người Việt đã đổ xuống mảnh đất “tiền đồn” cho cả hai phe?
Không. Trong Cựu ước Kinh có ghi lời Chúa: “Oeil pour oeil, dent pour dent”! Đúng, “Mắt đã được trả bằng Mắt, Răng đã được trả bằng Răng”. Thế là đủ lắm rồi. Dân tộc Việt Nam không còn nợ nần ai hết cả.
Cái gì đã là lịch sử hãy trả cho nó về với lịch sử.
V.C.Đ.
Nguồn: Bauxite VN
Ai Nợ Ai ?
Bàn góp với ông V.C. Đ.
Khải Nguyên
Nhà cầm quyền Bắc Kinh thường tận dụng các phương tiện tuyên truyền cố tình nhồi sọ làm cho dân TQ và nhân dân thế giới nghĩ rằng trong quá khứ họ đã đơn phương giúp Việt Nam chống xâm lược mà rồi VN “bội bạc”(!) (ngay cả một số Giáo sư TQ vẫn hay nói với sinh viên VN du học bên đó rằng VN “vô ơn”).
Trong bài “Viết nhân ngày Quốc khánh Trung Cộng: Đã đến lúc phải xóa món nợ ân oán giang hồ” trên Bauxite Việt Nam ngày 26-9-2011, ông Vũ Cao Đàm đã phân tích khá rõ rằng chính TQ cũng nợ VN. Tôi xin mạn phép bổ sung một số ý nhỏ.
Năm 1949, Trung Cộng giành được toàn nước Trung Hoa trên đất liền; sau đó chỉ được các nước XHCN công nhận. Họ rất muốn có được tiếng nói và nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Dịp may lớn đầu tiên là hội nghị Genève năm 1954 về chiến tranh Đông Dương – trong đó cuộc kháng chiến của VN là chủ đạo, Bắc kinh được tham dự [Sự nóng lòng tận dụng dịp may đó bộc lộ không mấy tế nhị và vinh dự trong phiên khai mạc: Chu Ân Lai, Trưởng đoàn Trung cộng, tươi tỉnh tiến đến để bắt tay trường đoàn Mỹ – nhưng ông này quay lưng lại]. Trong suốt quá trình hội nghị, họ qua mặt VN thương lượng trực tiếp với phái đoàn Pháp, áp đặt ý đồ chia cắt VN. Họ chỉ cần một vùng cách ly an toàn cho đất nước họ. Nhờ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân Đông Dương nói chung, có cơ hội, họ cố giương ra một vai trò nào đó trên bàn cờ quốc tế và đã đạt được phần nào.
Việc ra sức hoạt động để vươn ra thế giới không từ bất cứ thủ đoạn nào, tất nhiên có việc lợi dụng VN. Chuyện nhỏ sau đây chứng tỏ họ vừa thâm hiểm, vừa trơ tráo. Năm 1956, trong đêm tối một tàu hàng của Pháp trên đường vào một cảng biển VN để nhận than (do VN trả, nằm trong chi phí mua lại mỏ than ở Hồng Quảng – Quảng Ninh sau này) đâm phải một tàu đánh cá của người TQ chường ra trên luồng tàu đi. Người Pháp vớt các ngư dân lên chăm sóc, đối đãi tử tế, lập biên bản trong đó ngư dân TQ thừa nhận họ đã sai, vi phạm luật đường biển. Thuyền trưởng tàu Pháp mời nhà chức trách VN đến trao trả người và đưa cả biên bản. Phía VN cảm ơn, rồi trao lại cho phía TQ. Bắc Kinh nhận người, ỉm luôn biên bản, và lớn tiếng kết tội tàu Pháp đã ngang nhiên hiếp đáp ngư dân TQ (!), đòi công khai xin lỗi và bồi thường. Họ tìm cách để buộc Chính phủ Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán với họ. Vì mưu đồ thâm hiểm của mình, họ đẩy VN vào thế rất khó xử. Người Thuyền trưởng Pháp cay đắng nói với phía VN: Tôi biết các ông đang phải làm vừa lòng TQ, đằng sau việc này là những toan tính chính trị của Bắc Kinh.
Nhiều người đã nêu rõ lý do vì sao năm 1968 Bắc Kinh ra sức ngăn cản VN đi hòa đàm với Mỹ ở Paris. Họ muốn VN “chống đế quốc đến người VN cuối cùng” (cách nói của các nhà báo phương Tây) một khi họ đang cần vậy cho những tính toán lợi ích của họ. Đến khi Mỹ muốn rút khỏi cuộc chiến trong danh dự, Bắc Kinh bèn chìa tay ra. Bắt đầu bằng “ngoại giao bóng bàn” và cuộc đi đêm của Kissinger đến Bắc Kinh sau “màn kịch đau bụng” của ông ta tại Pakistan. Tiếp đó là màn Tổng thống Mỹ Nixon thăm TQ năm 1971, cùng với các cuộc mật đàm, và hệ quả là kết ước Thượng Hải. “Chiến lợi phẩm” của Bắc Kinh trong cuộc buôn bán chính trị này thì chẳng ít, nhưng rõ ràng nhất là việc Mỹ làm ngơ cho TQ xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của VN năm 1974, và không lâu sau để ngỏ cửa cho họ giành chiếc ghế thường trực Hội đồng Bảo an LHQ của Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan).
Có được vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế và được ngồi vào ghế HĐBA LHQ, chính (cố) Thủ tướng TQ Chu Ân Lai từng nói với “các đồng chí VN”, không chỉ một lần, rằng nhờ có phần đóng góp quan trọng của cuộc đâu tranh của nhân VN, và họ – TQ – rất biết ơn về điều đó.
Nói về “nợ”, TQ từng “giúp” VN lương thực, trang thiết bị quân đội, vũ khí (chủ yếu là của Liên Xô hoặc do LX giúp Mao đánh Tưởng),...; trong khi đó, với VN chính TQ nợ xương máu, nợ “chia cắt đất nước” (chẳng phải Chu Ân Lai đã thừa nhận với Lê Duẩn “chúng tôi đã sai lầm” về vấn đề này sao!), nợ về sự trì trệ,...
Nếu kể cho rạch ròi thì nhiều thứ TQ “giúp” đã gây hại, trước mắt hoặc về lâu về dài. Chẳng hạn, đưa quân sang giúp làm đường thì tàn phá môi trường, cảnh quan (trong đó có việc đặt mìn tiêu hủy “hòn đá Liễu Thăng”) [xin dẫn thêm một vài ví dụ trong trăm ngàn ví dụ: ở Côn Sơn, nơi ẩn cư của Trần Nguyên Đán và Nguyễn Trãi, họ đã đào xuyên ngang dọc quả núi thành đường hầm, hiện cửa vào bị bít, không ai biết họ làm gì trong đó. Nhiều di tích như di tích An Sinh, nơi gần đây mới xây đền thờ các vị vua Trần, hết thảy tượng đá thời Trần đều bị phạt cụt đầu hoặc bắn vào bụng. Ở Ngọa Vân am, không những tháp Phật Hoàng đựng xá lỵ Hoàng đế Trần Nhân Tông và tháp Đoan Nghiêm cổ kính cao lừng lững bị đào rỗng ruột, toàn bộ bài vị trong tháp bị đập cho tan nát, tấm bia Trịnh Căn cho lập để kỷ niệm một lần ông đưa con trai và con gái trèo núi lên chiêm bái vị anh hùng cũng bị đâp thành ba bảy mảnh, mà 13 ngọn tháp đứng theo một hàng thẳng tắp chạy thoai thoải xuống phía Tây Nam cách nhau chừng 50 mét một tháp đều bị phạt ngang, phía dưới có một đường hầm lộ thiên đào thông tháp nọ với tháp kia. Họ định phá long mạch của nhà Trần lừng lẫy chiến công chống giặc Bắc, cũng tức là phá long mạch của Việt Nam chăng? – Bổ sung của Nguyễn Huệ Chi], khai thác trộm của cải, thăm dò ngầm tài nguyên, địa thế,... Chẳng hạn, giúp cố vấn CCRĐ thì đẩy đến những vụ giết chóc man rợ (Không kể những vụ “nổi tiếng” như vụ Nguyễn Thị Năm, có nhiều vụ “âm thầm”; ví như tại một xã, sau một đêm có sáu người treo cổ, cán bộ đội CCRĐ nhận định là tự tử, nhưng bị cố vấn TQ phê phán là kém cảnh giác và khẳng định là do địch bịt đầu mối; sau đó “quả nhiên” đội (phải) tìm ra “địch” đưa ra xử tử!). Chẳng hạn, giúp “xây dựng CNXH trên miền Bắc” thì như khu gang thép Thái Nguyên mà một chuyên gia Đông Âu XHCN từng nhận xét là kỹ thuật lạc hậu chính TQ đang muốn thay thế ở ngay nước họ, quy mô dềnh dàng tốn đất, năng suất thấp, v.v. Những món nợ kiểu này, những người VN cả tin phải chịu, nhưng Bắc Kinh phủi tay được sao?!
Đã đến lúc, dẫu khí muộn, cần phải cho nhân dân VN, nhân dân TQ, nhân dân toàn thế giới thấy rõ sự thật trắng đen, không để cho Bắc Kinh quen lối “cả vú lấp miệng em” đầu độc dư luận trong nước họ và quốc tế. Mà làm việc này trách nhiệm chính là của các phương tiện thông tin chính quy của ta, các báo “mạng” chỉ có tác dụng hạn chế.
27-9-2011
K.N.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét