Thứ Ba, 1 tháng 11, 2011

Cộng Sản Việt Nam: Có Chính Danh, Chính Nghĩa, Có Dân Chủ và Pháp Trị Hay Không?

TS. LS. Luu Nguyen Dat
October 11, 2011

Trong dịp “Bàn thêm về “Thư Ngỏ” của 36 trí thức hải ngoại, GS Thạc sĩ Vũ Quốc Thúc xác định CSVN là một “chính quyền chính thức [governement légal], có “chính danh” [légalité], nhưng lại phân biệt: “Đối với những người chống cộng, thì nhóm C.S đang nắm quyền ở Việt Nam không có chính nghĩa [légitimité] vì đã chiếm quyền dưới vĩ tuyến 17 bằng bạo lực, trái với các hiệp định đã ký kết ở Paris năm 1973…” [1]

Sau đó GS Vũ Quốc Thúc còn nhấn mạnh: “Chúng ta – những người sông yên ổn ở hải ngoại – có bổn phận ủng hộ họ : thư ngỏ là một hành động yêu nước , phục vụ dân chủ , phục vụ RULE OF LAW .[2]

Với tất cả sự kính trọng dành cho một vị trưởng thượng đại trí thức như GS Vũ Quốc Thúc, người viết cùng độc giả chân chính vẫn thấy có bổn phận xét kỹ lại những thuật ngữ trên để xem:

  • Chế độ Cộng Sản tại Việt Nam [CSVN] có phải là một “chính quyền chính thức”, có “chính danh” hay không?
  • Lý do nào chính thể này còn bị coi là không có “chính nghĩa”?
  • Và phải chăng những người đồng ký tên trong “Thư Ngỏ” trên đều có bổn phận ủng hộ “họ”[CSVN], với kỳ vọng chuyển hoá CSVN, hay với ước mong họ trở thành chính quyền có “chính nghịa”, …có “dân chủ đích thực”, có “pháp trị đích thực”?

I. CSVN CÓ PHẢI LÀ MỘT “CHÍNH QUYỀN CHÍNH THỨC”, CÓ CHÍNH DANH HAY KHÔNG?

Trước hết, xin định nghĩa rõ rệt lại: một chính quyền chính thức [governement légal], có chính danh [légalité] là một chính quyền hợp lệ, hợp pháp, xuất xứ từ một truyền thống hay một trạng thái chuyển nhượng pháp định.[3]

Người viết căn cứ vào lịch sử cận đại chứ không chỉ nghe ngóng lập trường của “những người chống cộng” [4] mà cho rằng những sự kiện táo bạo của hai thời điểm 1945 và 1975 đã chứng tỏ CSVN không phải là một “chính quyền chính thức”, theo nghĩa “governement légal” hay có “chính danh”, theo nghĩa “légalité” như GS Vũ Quốc Thức xác nhận, mà chỉ đáng được gọi là một ngụy quyền tại vị [un pouvoir illégal en place], hay một hiện tượng tiếm quyền [un état d’usurpation de pouvoir] không hơn không kém, và tất cả những trạng thái áp đặt đó đều bất chính, bất hợp pháp.

1. Cách Mạng Mùa Thu 1945

Vậy khi căn cứ vào định nghĩa trên, chỉ chính quyền quốc gia của Chính phủ Trần Trọng Kim mới là chính quyền chính thức, hợp pháp hợp lệ, có chính danh, sau khi vua Bảo Đại của Triều Nhà Nguyễn đã công bố bản Tuyên Ngôn Độc Lập vào ngày 11.3.1945 và giao cho Trần Trọng Kim thành lập nội các vào ngày 17.4.1945.

Còn cái nguồn gốc chấp chính của CSVN, cái gọi là Cách mạng mùa thu thực chất chỉ là một cuộc cướp chính quyền của Chính phủ Trần Trọng Kim. Thật vậy, ngày 17.8.45, từ một buổi Mít-tinh của Tổng Đoàn Công Chức để chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim bổng chốc trở thành biểu tình của Mặt Trận Việt Minh: “Quả lừa lịch sử” bắt đầu chính là từ đây.[5]

Như vậy, trên căn bản pháp lý, thuật ngữ “cách mạng mùa thu” [1945] cũng đủ chứng tỏ hành vi cướp chính quyền của lực lượng Việt Minh dẫn tới hiện tượng chấp chính bất hợp pháp, ngược lại với thế hợp pháp, có chính danh của Chính phủ Trần Trọng Kim.

2. Hànội Vi Phạm Hiệp Định Hoà Bình Paris 1973 Khi Xua quân Chiếm Sàigòn, Mùa Xuân 1975

Hiệp Định Paris là hiệp định chấm dứt Chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, do 4 bên tham chiến — Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa — ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973, với những khoản chính như sau:

  • Một cuộc ngừng bắn sẽ được thực hiện trên khắp miền Nam Việt Nam kể từ ngày 27 tháng giêng năm 1973;
  • Các lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Hòa sẽ ở nguyên vị trí của mình trong lúc chờ đợi thực hiện kế hoạch rút quân.
  • Các lực lượng vũ trang của hai bên miền Nam Việt Nam sẽ ở nguyên vị trí của mình.
  • Các lực lượng chính quy thuộc mọi quân chủng và binh chủng và các lực lượng không chính quy của các bên ở miền Nam Việt Nam phải ngừng mọi hành động tấn công nhau.
  • Từ khi thực hiện ngừng bắn cho đến ngày thành lập chính phủ …hai miền Nam Việt Nam không được nhận đưa vào miền Nam Việt Nam quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự, kể cả nhân viên quân sự kỹ thuật, vũ khí, đạn dược và dụng cụ chiến tranh.
  • Hai bên miền Nam được phép từng thời gian thay thế vũ khí, đạn dược, dụng cụ chiến tranh đã bị phá huỷ, hư hỏng, hao mòn hoặc dùng hết từ sau khi ngừng bắn, trên cơ sở một đổi một, cùng đặc điểm và tính năng…

Vậy ngay sau khi quân đội Hoa Kỳ rút hết vào cuối tháng 3 năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Giải phóng miền Nam ồ ạt tăng quân, binh chủng, súng đạn, chuẩn bị đánh dứt điểm chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Như vậy âm mưu xua quân của ngụy quyền Hànội, ồ ạt vượt vĩ tuyến 17 để cưỡng chiếm Sàigòn là một hình thức xâm nhập lãnh thổ và tiếm quyền bất chính, bất hợp pháp, vì đã vi phạm những điều khoản căn bản trên của Hiệp Định Paris 1973, cũng như đã từng vi phạm Hiệp Định Genève 1954 trước đó. Vậy, việc áp đặt chính quyền “thống nhất” trên Miền Nam Việt Nam, dưới chướng ngụy quyền Hànội/Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, sau khi lật đổ thể chế Việt Nam Cộng Hoà và gạt bỏ lực lượng bù nhìn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là một hành vi tiếm quyền bằng lừa đảo và bạo lực.

Căn cứ vào những sự kiện lịch sử trên [1945 & 1975], CSVN ngày nay, bắt nguồn từ hai đợt tiếm quyền bằng lừa đảo và cưỡng chiếm bằng bạo lực không thể được coi là một chính phủ chính thức, hợp pháp, hợp lệ, có chính danh chính thực.

Chính thể Hànội sau 1945 và nhất là sau 1975, không hơn không kém, vẫn chỉ là một ngụy quyền tại vị [un pouvoir illégal en place], một hiện trạng tiếm quyền [un état d’usurpation de pouvoir] bất hợp pháp, bất hợp lệ, khác hẳn với sự thẩm định của nhóm “Thư Ngỏ”, như đã được minh thị xác nhận bởi vị thầy chỉ đạo, GS Vũ Quốc Thúc và vị chánh chủ thảo, GS Lê Xuân Khoa.

II. TẠI SAO CSVN KHÔNG CÓ CHÍNH NGHĨA?

1. Thế nào là “chính nghĩa”?

Về mặt thuần thục, “Chính nghĩa” là trạng thái hành xử thích hợp với lẽ phải chân chính của công lý; ứng dụng đại nghĩa công bình và đạo đức nhân bản; bảo trọng quyền lợi, nguyện vọng tiến hoá và hạnh phúc của toàn dân.[6] Do đó, một chính quyền có chính nghĩa địch thực khi được dân chúng tín nhiệm, tin tưởng. [7]

Một lực lượng cách mạng, khởi đầu có thể là một tổ chức bất hợp pháp, khi nổi dậy đào thải một chính quyền tại vị. Nhưng sau cuộc đảo chính hay cách mạng đó, lực lượng nổi dậy có thể tạo dựng thành một chính quyền có chính nghĩa, như trường hợp của những cuộc cách mạng giành độc lập, tự do, dân chủ tại Pháp, Hoa Kỳ và gần đây tại các quốc gia Ả Rập và Trung Đông. Những lực lượng nhân dân này đã khởi nghĩa phá bỏ những thể chế lỗi thời, phản nước, hại dân để tạo dựng vào đó những chính thể phù hợp với chủ quyền quốc gia, với quyền lợi và phẩm giá của toàn dân.

2. Tại sao lại quả quyết CSVN không có chính nghĩa?

Một lần nữa, người viết lại vịn vào lịch sử cận đại chứ không chỉ nghe ngóng lập trường của “những người chống cộng” mà khẳng định rằng CSVN không chính nghĩa, bởi những chứng cứ sau đây:

  • Rõ rệt nhất, từ lúc thành lập bán khai cho tới khi lộ diện, đảng phái và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam [CSVN] không bao giờ phục vụ quyền lợi của dân tộc Việt Nam.

  • Đối với Hồ Chí Minh và các đồng chí cộng sản, cứu cánh biện minh cho phương tiện, kể cả thủ đoạn đê hèn nhất. Cái dã tâm là cứu cánh của họ không có mục đích chính đáng, phục vụ dân tộc, mà chỉ phỉnh gạt, lừa lọc, gây tội ác để củng cố đảng phiệt và chế độ cộng sản của họ, và để duy trì quyền lợi cho khối cộng sản chuyên chính quốc tế [comintern], dù phải làm thiệt hại cho dân tộc Việt Nam.

  • Ứng dụng tư tưởng căn bản trên, năm 1941, Đảng CSVN họp ở Cao Bằng đã quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng Minh Hội (Việt Minh) để “mượn đầu heo nấu cháo”, gây thêm lực lượng, kết tụ “đồng minh giai đoạn” dưới chiêu bài “ái quốc”, chống Pháp, dành độc lập: “Liên hiệp hết thảy tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật-Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.” Sau đó vài năm, thành phần cộng sản bắt đầu loại trừ các hệ phái quốc gia trong “Mặt trận Liên Việt”: Cán bộ cộng sản thẳng tay tiêu diệt các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân v.v., dù những thành phần dân tộc này đã từng nhiệt thành sát cánh chống Pháp, cứu nước, bênh dân.

  • Cũng theo chiêu bài lợi dụng và tiếm quyền “đồng minh nhất thời” trên, lực lượng cộng sản miền Bắc đã xâm nhập miền Nam và tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam vào năm 1960. Lực lượng Việt Cộng miền Nam trá hình này sau 1975 cũng bị “thất sủng”, các lãnh tụ cuả “Mặt trận Dân Tộc” cũng bị thủ tiêu, hoặc đi “cải tạo” như kẻ thù phản động. Đồng chí hôm trước, kẻ thù hôm sau: Làm gì có “Mặt trận Dân tộc”? Làm gì có giải phóng dân tộc Miền Nam, khi đó chỉ là một cuộc tảo thanh ý thức hệ, một mưu toan bá chủ quyền lợi độc nhất của đảng cộng sản “Bắc Thuộc”.

  • Kể cả “đồng bào” của chế độ CSVN, dù được tuyên truyền tung hô là “dân làm chủ”, bất cứ lúc nào họ cũng sống trên đe dưới búa và dưới lưỡi liềm sát cổ. Làm gì có việc “bảo trọng quyền lợi, nguyện vọng tiến hoá và hạnh phúc của toàn dân” khi đội ngũ mác-xít trá hình “công bộc” chỉ biết tiếm quyền dân, với dã tâm nuôi dưỡng hận thù, tranh đấu giai cấp, đấu tố tư sản, đấu tố phú nông, sát hại địa chủ? Đó là những đợt “cải cách ruộng đất”, từ năm 1953 tại vùng Thanh Hoá, Liên Khu IV tới năm 1956, trên khắp miền Bắc, bằng cách thảm sát tập thể khoảng hai trăm ngàn người dân, quy vào thành phần địa chủ và phú nông, rập khuôn theo mưu đồ “vô sản hoá” của Nga Xô và Trung Cộng. Trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản (Manifesto), Karl Marx đã tuyên bố: “cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc”. Bằng cách thủ tiêu và sát hại dân oan.

  • Ngoài cuộc thảm sát tập thể thành phần địa chủ và phú nông, tiểu tư sản, nhân danh “cải cách ruộng đất”, chế độ CSVN còn trực tiếp nhúng tay vào sách lược sát hại, thủ tiêu, chôn sống gần 8 ngàn dân vô tội, [2] cũng lạnh lùng nhân danh “giải phóng” dân tộc xứ Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968.

  • Để thực hiện chính sách hại dân, độc tài đảng phiệt chuyên chính, sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình “hoc tập cải tạo” của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là “cải tạo” những người chống đối chủ nghĩa xã hội để biến họ thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch “cải tạo giết người” này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850 ngàn người dân Miền Bắc trong những cái gọi là “trại học tập cải tạo” theo Nghị Quyết mang số 49-NQTVQH ngày 20/06/1961, áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.

  • Tương tự, ngay sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, Chế độ CSVN đã tiếp tục thi hành kế hoạch bỏ tù cả triệu quân cán chính của phe Quốc Gia bại trận, đồng thời thủ tiêu mất tích hài cốt của 165 ngàn quân, cán, chính VNCH trong 150 “trại tù cải tạo” trên toàn cõi Việt Nam.

  • Chế độ CSVN này tới ngày nay vẫn truy tố và tiếp tục bỏ tù bất cứ ai dám bày tỏ bất đồng chính kiến, hay can đảm chỉ trích những sai quấy, thối nát của Chế độ này.

  • Ngoài chính sách lừa dân, tiếm quyền, bội ước, vi phạm hiến pháp rừng và lạm quyền pháp định cuội; ngoài việc hủy hoại tư tưởng, niềm tin căn bản của 90 triệu dân, chế độ CSVN còn trắng trợn trở thành một bầy tham nhũng tư bản đỏ, cướp đất của dân, của chùa, của chúa, thụt két của công, đại náo môi trường mậu dịch toàn cầu, chia chác toàn bộ lãnh đạo. Chế độ CSVN ngày nay không hơn, không kém là một hệ thống mafia quốc tế, một băng đảng tội ác dây chuyền, di căn toàn bộ.

  • Chế độ CSVN luôn luôn chủ mưu Hán hoá, bán đứng lịch sử và căn cước của toàn dân Việt Nam; tìm mọi cách cầm cố, bán đứng lãnh thổ, lãnh hải cho đàn anh Trung Cộng, miễn sao họ được bảo vệ, được giữ nguyên cái ghế quyền hành mục nát, “made in China”.

Những chứng cứ điển hình trên cho thấy CSVN chỉ là một chính thể ngụy tạo, độc tài, vô nhân đạo, bán nước, hại dân. Bị dân oán trách. Như vậy, CSVN không hề có chính nghĩa quốc gia nhằm bảo tồn vận mệnh đất nước và cũng không hề có chính nghĩa quốc dân nhằm bảo trọng và phát huy dân tộc, vốn đó là những điều kiện cần và đủ [conditions nécessaires & suffisantes] để được lòng tin của toàn dân trong và ngoài nước.

Trên căn bản tiên quyết của đại nghĩa chí nhân, đất nước, dân tộc, nhân loại mới là cứu cánh của chính nghĩa đích thực. Ý thức hệ chỉ là phương thức, nếu khả chấp, hữu hiệu, nếu tử tế, nhân bản. Khi chủ trương ngược lại những điều kiện cần và đủ trên, ý thức hệ kiểu phát xít, cộng sản, giáo phiệt v.v. chỉ có tính cách ngụy tạo, phản động, tự hủy. Lịch sử đã và đang loại trừ những tai ương nhân tạo này.

III. CSVN: PHÁP TRỊ HAY ĐẢNG TRỊ?

“Pháp trị”, dịch từ Anh-Mỹ ngữ “Rule of Law”, đôi khi còn gọi là Supremacy of Law” hay “Ưu Thế của pháp luật”, là một châm ngôn pháp lý [legal maxim] xác định rằng:

  • Không ai đứng trên pháp luật;
  • Không ai bị nhà nước trừng trị, nếu không vi phạm pháp luật;
  • Không ai bị xét xử về một tội trạng ngoài phạm vi và thủ tục xét xử về tội danh đó.

Ngắn gọn, chế độ Pháp trị chủ trương bất cứ ai, kể cả cấp lãnh tụ, người có quyền hành, mọi công dân trong nước đều phải tôn trọng và thi hành pháp luật một cách đích thực, chính đáng, căn cứ vào “ưu thế của pháp luật” và nguyên tắc “pháp luật chi phối”. [8]

Trong năm 1959, có tất cả 185 luật gia gồm thẩm phán, luật sư, giáo sư luật học, đã họp mặt tại New Delhi dưới danh xưng “International Commission of Jurists” để xác định những nguyên tắc chính của “Pháp trị”/Rule of Law như sau:

  • Ngành tư pháp độc lập;
  • bị can được đoán chừng vô tội [presumption of innocence];
  • xét xử công minh không bị chậm trễ;
  • hình phạt tương xứng, không quá mức;
  • công bằng trước pháp luật;
  • mọi hình thức tầm nã, bắt giữ trái phép; giam cầm vô hạn định; xét xử bí mật; hình phạt quá đáng, độc ác; doạ nạt, mua chuộc thẩm đoàn, v.v. đều bất khả chấp.
  • Pháp trị đặt nền móng công minh, trong sáng, ứng dụng cho mọi trường hợp, mọi công dân, vừa để xét xử nội vụ đúng cách, vừa để bảo vệ nhân cách của mọi bị can đem xét xử.

Để thực thi, định nghĩa “Pháp trị” theo hình thức bao gồm những thủ tục pháp lý chuẩn mực phù hợp với cơ cấu pháp quy đem thi hành. Còn định nghĩa “Pháp trị” theo nội dung cho phép ứng dụng pháp luật ợ những khía cạnh phụ thuộc, trong phạm vị pháp định, đối với từng trường hợp liên can.[9] Do đó, xét về nội dung, một đạo luật bất công, thiếu công minh [unjust law] không đáng gọi là luật, và không thể thi hành. Đương nhiên những đạo luật bất hợp hiến thì bất khả thi.[10]

Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc định nghĩa Pháp Trị/Rule of Law như sau:

  • Nguyên tắc cai trị [principle of governance] mà theo đó mọi người dân, tổ chức, pháp thể, tư cũng như công, kể cả Chính quyền, Nhà Nước [including State itself], đều phải tôn trọng, thi hành một cách công minh, công bằng, phù hợp với quy tắc nhân quyền quốc tế.
  • Tôn trọng ưu thế của pháp luật, trên căn bản công minh, công bằng, phân quyền xét xử và bảo trọng pháp luật, cũng như bãi bỏ mọi hình thức võ đoán, biệt đãi, hay miệt thị.

Trong khi đó, CSVN chủ chương Đảng Trị, căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam [1992, sửa đổi 2001], Điều 4:

  • “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội…”

Bất cứ ai, nếu minh mẫn, công bằng, không thiên vị, đều phải thấy những bất cập, sai lầm sau đây do Điều 4 gây ra:[11]

  • điều 4 Hiến pháp 1992 đặt Đảng vào vị thế siêu quyền lực.

  • trước đó, điều 4 Hiến pháp năm 1980 đã khẳng định “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Điều 4 Hiến pháp Việt Nam 1992 xây dựng trên cơ sở điều 4 Hiến pháp 1980, chỉ bỏ đi từ “duy nhất” sau khi chủ nghĩa cộng sản Đông Âu sụp đổ, nhưng không vì thế mà làm giảm đi siêu quyền lực của đảng CSVN.

  • Việc quy định quyền lãnh đạo của Đảng trong hiến pháp tất nhiên tạo ảnh hưởng đến cả các bộ luật hay văn bản dưới luật, cũng như gây ảnh hưởng trực tiếp đến các điều khoảnkhác trong hiến pháp, cũng như các luật lệ ban hành sau đó. Có thể nói hầu hết các điều trong Hiến pháp đều bị điều 4 chi phối, nghĩa là sự lãnh đạo của Đảng vẫn là tối thượng.

  • Như vậy Đảng Cộng Sản, thực chất chỉ là một nhóm người được quy định tại điều 4 Hiến pháp, được độc quyền lãnh đạo đất nước, nhà nước và xã hội, đã tước đi vai trò làm chủ thật sự của người dân và mặc nhiên đứng trên pháp luật của lãnh thổ, đương nhiên xoá bỏ tận gốc nguyên tắc Pháp trị.

  • Ngay quyền làm luật qua Quốc hội cũng nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng bởi hơn 90% đại biểu Quốc hội là đảng viên CSVN và mọi đảng viên phải tuân theo chính sách và chỉ thị của đảng CSVN.

  • Kể cả ngành tư pháp cũng do Đảng chỉ định, bổ nhiệm, kiểm soát, qua vai vế Quốc hội. Vậy, mỗi khi Toà án nhân dân xét xử là Đảng CSVN cũng lại ra chỉ thị tiên quyết về bản án, như trường hợp xét xử các bị can bất đồng chính kiến, hoặc gần đây vụ xét xử LS Cù Huy Hà Vũ.

  • Còn khi Đảng sai lầm, phạm pháp, tham nhũng như trong các vụ đặc nhượng khai thác Bauxite tại Tây Nguyên, bán rừng, buôn lậu gỗ, và cả những vụ tầy trời như lạm dụng công quỹ trong vụ Vinashin vỡ nợ hơn 4 tỷ Mỹ kim, hay Vụ tham nhũng RBA/Securency về tội danh đưa hối lộ số tiền lên tới $17 triệu Mỹ kim thông qua môi giới liên can tới Lương Ngọc Anh và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng v.v. thì lại không bị chế tài theo nguyên tắc Pháp trị mà chỉ kiểm thảo theo cương lĩnh Đảng trị.

Như vậy, Hiến pháp Việt Nam, nền móng của luật pháp ở Việt Nam lại nằm dưới Cương lĩnh của Đảng CSVN. Do đó, thuật ngữ “Pháp Quyền/Rule by Law” [cai trị bằng luật] do CSVN trưng bày chỉ là một mạo nhận xảo trá của nguyên tắc Pháp Trị/Rule of Law [thượng tôn luật pháp]. Do đó, luật rừng của chế độ CSVN cũng chỉ là một trò hề nực cười của công lý.[12]

IV. TẠM KẾT : NÊN “ỦNG HỘ” HAY CẦN CHỐNG CỘNG SẢN VIỆT NAM?

Vậy trong khi CSVN quyết tâm bám chặt định hướng xã hội chủ nghĩa, tận dụng vị thế siêu quyền lực để củng cố đảng phiệt, độc quyền thao túng thị trường, độc quyền tham nhũng và gây thảm hoạ cho đất nước, cho dân tộc, thì những người Việt tỵ nạn cộng sản tại hải ngoại vẫn phải giữ vững lập trường vừa đề cao cảnh tỉnh trước tai ương lịch sử, vừa chuẩn bị cho giai đoạn tái thiết đất nước khi CSVN tất nhiên phải cáo chung.

Chống CSVN-Mafia bằng trí giác, bằng lời lẽ từ tốn, minh bạch nêu cao sự thật và đại nghĩa là chính danh, chính nghĩa, là trân trọng dân tộc.

Còn mập mờ “Ủng hộ” [sic] CSVN, vừa không có chính danh, vừa không có chính nghĩa, vốn là những kẻ quyết liệt phạm pháp, phản nước, hại dân có phải là nối giáo cho giặc, là a dua, a tòng với “họ” hay không? Là liều lĩnh tự hủy trong ngay cái bẫy ngỏ do chính quý vị tạo bày, khi biết rõ ”ỦNG HỘ HỌ” không đi tới đâu? Cả cựu Tổng Thống Nga Boris-Yeltsin cũng đã từng nói “CỘNG SẢN KHÔNG THỂ NÀO THAY ĐỔI, MÀ CẦN PHẢI DẸP BỎ.”

Vậy, mời quý vị về lại với lý trí, với lẽ phải, với gần 90 triệu dân Việt của chúng ta [sau khi trừ đi vài ngàn/vài trăm "Ngài" CS Đại gia Tư bản đỏ, đang tìm cách tẩu thoát ra "nước lạ/nước ngoài"].

Trân trọng,

TS-LS. Lưu Nguyễn Đạt

© www.Vietthuc.org


Lịch sử Việt Nam những năm 1954-1965 được xét lại

Quan điểm “chính thống” về CHVN-I bị bác bỏ

Nhân đọc: Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954-1965

Giáo sư Mark Moyar; Cambridge University Press; 2006; 512 trang

Tôn Thất Thiện

Lịch sử và sự thật

Những người nghiên cứu lịch sử nhiều không sớm thì muộn sẽ đi đến hai nhận xét sau đây: 1/ kẻ thắng là kẻ viết lịch sử; 2/ sự thật rốt cục sẽ thắng. Hai điều này đều đúng khi xét đến lịch sử Việt Nam trong sáu thập niên qua, đặc biệt là từ 1954 đến 1975 đối với Miền Nam nói chung, và từ 1954 đến 1963 riêng cho những chiến sĩ đã cố sức và hãnh diện phục vụ thời Đệ Nhứt Cọng Hoà, dưới sự lãnh đạo của Ông Ngô Đình Diệm.

Trong thời gian nói trên, hay đúng hơn, từ 1975 đến gần đây, người Miền Nam Việt Nam chống cọng sản thuộc moi giới – dân sự, quân sự, chính trị, tôn giáo, trí thức-- đã bị khinh thị, mạ lỵ, vu khống, bôi lọ, ép vào thế phải mang mặc cảm của kẻ bại. Họ đã bị gán cho rất nhiều điều xấu, đặc biệt là đã bị đánh bại vì thiếu chính nghĩa, bất lực, chiến đấu dở và hèn nhát.

Những luận điệu bôi lọ Miền Nam trên đây rất phổ cập trong mọi giới ngoại quốc, đặc biệt là ở Bắc Mỹ và Âu Châu, vì nó được các giới chính quyền, truyền thông, đại học phổ biến một cách đơn phương, độc đoán, không bị phản bác. Các giới này nắm độc quyền trong việc viết lịch sử Việt Nam vì họ thuộc về phe thắng trận. Ngoài thành phần chính, tất nhiên là Đảng Cọng Sản Việt Nam, họ gồm có những thành phần thân cọng trá hình, phản chiến, thiên tả đủ loại, hay mù mờ về lịch sử, và nhất là về văn hoá Việt Nam, đã hoan hô, tâng bốc, ủng hộ ĐCSVN trong những năm chiến tranh. Chiến thắng của cọng sản Việt Nam năm 1975 đã tạo cho họ cái thế của kẻ có uy quyền và độc quyền nói trong khi những kẻ bại tất nhiên im lặng vì bị bịt miệng hay phải lẫn tránh. Do đó họ khống chế thông tin về Việt Nam. Chỉ có quan điểm của họ mới được phổ biến. Quan điểm ngược lại, hay khác quan điểm của họ bị dẹp đi. Quan điểm của họ đương nhiên thành quan điểm “chính thống”, và họ được gọi là “Trường phái chính thống” (orthodox school, école orthodoxe).

Ở đây có ba điều cần được ghi nhận.

Một là: có rất nhiều người Việt, kể cả một số người viết sử, đã a dua theo luận điệu của Trường phái chính thống khi nói hay viết về Miền Nam.Như những ký giả hay học giả ngoại quốc, họ cũng chê trách các chính quyền hay binh sĩ Miền Nam. Đó là vì họ đọc sách báo của ngoại quốc nhiều hơn, hay cho sách báo ngoại quốc là đúng đắn đáng tin hơn -- Bụt nhà không thiêng! --, hay vì không thạo tiếng Việt họ chỉ có thể đọc được những sách báo đó.

Hai là: Đệ Nhứt Việt Nam Cọng Hoà, và đặc biệt người lãnh tụ của chế độ này, Ông Ngô Đình Diệm, bị đả kích, kết tội nặng nề nhứt. Đó là vì chế độ Ngô Đình Diệm, và đặc biệt là sự lãnh đạo của Ông, đã hữu hiệu và gây khó khăn nhiều nhứt cho phía cọng sản và chính những sử gia thuộc Trường phái chính thống.

Ba là: những gì tốt về Miền Nam mà bất lợi cho phía cọng sản, nghĩa là có thể làm giảm uy tín của Truờng phái “chính thống” đều bị trường phái này ém nhẹm đi, dù đó là những sự thực rõ ràng. Phần khác, những phê phán của giới này về Miền Nam luôn luôn nhằm hạ bệ uy tín của dân và chính quyền Miền Nam. Nói tóm, sự thực về Miền Nam đã hoàn toàn bị Trường phái chính thống xuyên tạc, bóp méo, ém nhẹm trong suốt 5-6 thập niên qua.

Nhưng kinh nghiệm cuộc sống cho thấy rằng không có gì vĩnh là viễn cả. Đặc biệt là về phương diện lịch sử, không có một chủ nghĩa, một chủ trương, một chính sách, một tổ chức nào thoát được sự nắn bóp của thời gian cả. Qua thời gian, mọi việc đều thay đổi, đều biến chuyển. Qua thời gian, những lớp người mới sẽ xuất hiện. Và mấy lớp người mới này sẽ có những tư tưởng, những quan niệm, những chính sách, những cách hành xử khác. Như vậy là vì họ phải trực diện với những tình hình mới, những dữ kiện mới. Dù muốn, dù không, họ không suy nghĩ và hành động như những lớp người đã qua.

Phần khác, qua thời gian, những dữ kiện trước kia bị ém nhẹm dần dần được tiết lộ, giúp cho ngưòi đương thời, và đặc biệt là các sử gia không có quan hệ gì với các chế độ củ, thấy rõ vấn đề, vạch ra những sai lầm thiếu sót của Trường phái chính thống, và đưa ra nhửng nhận định phán xét khác, không thể phản bác đuợc vì nó dựa trên những dữ kiện quá rõ ràng, chính xác. Đây là tình trạng hiện nay với sự xuất hiện của tác phẩm Triumph Forsaken, The Vietnam War 1954-1965 của Giáo sư Mark Moyar. Tạm dịch nó là Chiến Thắng Bị Khước Từ, Chiến Tranh Việt Nam 1954-1965.1

Một tác phẩm hết sức quan trọng

Đây là một tác phẩm hết sức quan trọng. Nó sẽ có những hậu quả rất lớn về vấn đề làm sáng tỏ lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975, đặc biệt là trong giai đoạn 1954-1963, thời mà Ông Ngô Đình Diệm nắm chính quyền ở Miền Nam Việt Nam. Nó đánh dấu sự phát khởi của một phong trào xét lại lịch sử Việt Nam trong giai đoạn nói trên, tái lập sự thực, chấm dứt sự khống chế của Trường phái chính thống, đập tan những luận điệu vu khống bôi lọ của trường phái này, tái lập uy danh của những chiến sĩ Miền Nam đã hết mình tranh đấu cho chính nghĩa, nhất là các chiến sĩ thời Đệ Nhứt Cọng Hoà và Ông Ngô Dình Diệm. Bià giới thiệu sách này (ấn bản New York) nói rằng: “Quyển sách này làm cho ta thấu hiểu chiều sâu của sự lật đổ Tổng Thống Miền Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm năm 1963 , và thấy rõ rằng cuộc đảo chính đã xoá đi những thành quả chính trị và quân sự mà chính phủ Miền Nam đã đạt giữa những năm 1954 và 1963; những thành quả này vô cùng lớn lao (tremendous), nhưng không được công nhận đúng giá của nó”.

Triumph Forsaken là một công trình sưu khảo lịch sử mà tính cách khách quan, vô tư, đứng đắn, và khả tín không thể nghi ngờ được. Nó rất đáng được ca ngợi. Nhưng để bảo toàn tính cách vô tư của nó, người viết bài này sẽ tránh phề bình, nhận định, phán xét, và nhường lời cho chính tác giả, Giáo sư Moyar, và cho những giáo sư Mỹ khác có uy tín đã điểm sách này vì những nhận định, phán xét, ý kiến của những người đã phục vụ Đệ Nhứt Cọng Hòa đưa ra dù có vô tư đến đâu, cũng bị cho là chủ quan, chuyện người một phe bênh nhau.

Giáo sư Mark Moyar sinh năm 1971, sau vụ đảo chính tháng 11 năm1963 đến 8 năm, và năm 1975, lúc Sài Gòn bị chiếm, ông ta mới có 4 tuổi, nghĩa là ông ta không có liên hệ gì với Ông Ngô Đình Diệm và Đệ Nhứt Cọng Hoà. Ông đã tốt nghiệp về môn sử ở Đại học Mỹ Harvard, đỗ Ph.D của Đại học Anh Cambridge, hai đại học danh tiếng của thế giới. Sau đó ông được mời giảng dạy ỏ Cambridge, rồi ở các Đại học Ohio, Đại học A&M của Texas, và hiện nay là giáo sư ở Đại học của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ ở Quantico, Virginia.

Các vị khác là: G.S. A.O.Edmonds, Ball State University, Muncie, Indiana; G.S. Mackubin Thomas Owens, Trường Cao đẳng Thủy quân Hoa kỳ ở Newport, Rhodes Island; G.S. Guenter Lewy, Đại học Massachussets, Amherst, Massachussets; G.S. Thomas Alan Schwartz, Đại học Vanderbilt, Nashville, Tennessee. Cũng như Giáo sư Moyar, những người này trẻ và chẳng có quan hệ cá nhân gì với Miền Nam Việt Nam cả. (Về xuất xứ của các bài bình luận, xin xem ở cuối bài này).2

Tác phẩm Triumph Forsaken dài 512 trương, gồm 17 chương. Muốn thật sát nội dung, tít này phải dịch là: “Thắng lớn không chịu, để bị bại nhục nhã: Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam, 1954-1965”. Sách chủ yếu nói về những quyết định sai lầm tai hại của chính quyền Hoa Kỳ, đã biến thắng thành bại.

Nói đến “thắng” thì ai cũng nghĩ ngay đến sự kiện quân đội cọng sản Miền Bắc vào Saì Gòn và chiếm toàn Miền Nam năm 1975. Nhưng “thắng” đây là nói về thời gian năm 1962 đến lúc đảo chính tháng 11, 1963. Mà thời gian đó là thời gian mà chủ quyền quốc gia Việt Nam, kể cả chủ quyền về quân sự, còn nằm trọn trong tay chính phủ Việt Nam, và sự thắng đó là thắng của quân đội Việt Nam , dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tổng Thống Việt Nam, lúc đó là Ông Ngô Đình Diệm, người Mỹ chưa trực tiếp can thiệp và chưa nắm thực quyền điều khiển Việt Nam.

Trong hai năm tiếp theo, 1963-1965, vì đảo chính và xáo trộn, cơ cấu quân sự và hành chánh Việt Nam tê liệt, tạo điều kiện cho cọng sản ồ ạt xua quân tràn xuống Miền Nam, khiến Hoa Kỳ phải đưa quân trực tiếp can thiệp vào Việt Nam để tránh một cuộc sụp đổ hoàn toàn.

Trong thời gian 1963-1975, và sau 1975, để biện minh rằng chủ trương lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm là đúng vì dưới sự lãnh đạo của Ông Ngô Đính Diệm tình hình suy sụp, các giới Hoa kỳ và Việt Nam trách nhiệm về cuộc đảo chính tháng 11, 1963 đã sửa đổi hồ sơ và thống kê để gây cảm tưởng đó.Giáo sư Moyar đã khám phá ra sự sửa đổi dối trá này.

Giáo sư Moyar cũng căn cứ trên tài liệu chính xác để xét lại vai trò của các giới trí thức và chính trị cùng của nhóm Phật tử chính trị theo Thích Tri Quang trong vụ biến sự thắng của Miền Nam thành bại.

Như các giáo sư bình luận ghi nhận, Giáo sư Moyar đã xử dụng những văn kiện chính thức nay đã được công khai hoá, và đặc biệt là những văn kiện của chính cọng sản Việt Nam. Giáo sư Moyar đã ghi rõ và phân tách rất tỷ mỹ những tài liệu đó cho nên khó phản bác những gì mà giáo sư đã trình bày. Do đó tác phẩm Triumph Forsaken có một giá trị rất lớn, không thể chối cải được.

Một cuộc xét lại tận gốc

Giáo sư Edmonds nói “đây là một cuộc xét lại tận gốc chính sách Hoa kỳ ở Vietnam ... Căn cứ trên tài liệu lấy từ văn khố và các lịch sử chiến tranh của cọng sản, tác phẩm có tính cách rất thách thức này công kích tất cả mọi khía cạnh của quan điểm mà Giáo sư gọi là quan điểm sử học “chính thống” về chiến tranh. Đây là một tác phẩm mà các thư viện cấp đại học đều phải có và các sử gia nghiên cứu về chiến tranh không thể không biết đến”.

Theo Giáo sư Owens “Triumph Forsaken một trong những quyển sách quan trọng nhất đã được viết về Việt Nam”, và “không có bài điểm sách nào có thể nói hết được giá trị của quyển sách vô cùng quan trọng này…Tất cả các sử gia chính thống sẽ phải công nhận tầm lớn lao của công trình này…”

Giáo sư Moyar giải thích rằng tác phẩm của ông ta “khác hẳn” quan điểm của Trường phái chính thống. Những người trong trường phái này cho rằng những người xét lại không phải là sử gia, mà chỉ làm vì ý thức hệ, và “dùng chế diễu và tẩy chay đối với những người không chấp nhận ý thức hệ đương khống chế”. Ông nói tác phẩm của ông chứa “nhiều lối suy luận mới thách thức những suy luận chính thống đến nay chưa bị thách thức”. Tác phẩm của ông phong phú hơn tất cả những tác phẩm hiện có, đặc biệt là ở điểm nó dùng tài liệu bao quát hơn.

Về điểm vừa nêu ra, các giáo sư điểm sách Triumph Forsaken đều công nhận và nhấn mạnh rằng Giáo sư Moyar đã làm việc một cách rất đứng đắn. Giáo sư Moyar “đã căn cứ một phần lớn trên văn kiện chính thức và lịch sử của Cộng sản về chiến tranh”(Edmonds); Giáo sư Moyar đã “sưu tầm rất sâu rộng và kỹ càng các tài liệu văn khố liên hệ và những tài liệu chính gốc hiện có, như là những lịch sử của Bắc Việt về cuộc chiến”; Triumph Forsaken đã được sưu khảo rất tỷ mỉ và táo bạo trong việc suy diễn tài liệu” (Owens); Giáo sư Moyar đã “sưu tầm rất rộng rãi và thận trọng tài liệu chính gốc mới xuất phát như lịch sử chiến tranh do Bắc Việt công bố” (Lewy); Giáo sư Moyar đã xữ dụng những tài liệu mới của các văn khố Hoa kỳ và cọng sản. Sách của ông là “một sự thách thức rất mãnh liệt” đối với quan điểm chính thống, và buộc các sử gia phải mở lại cuộc tranh luận về chiến tranh Việt Nam. (Schwarz)

Điểm chính mà tất cả các bình luận gia đều nhấn mạnh là Giáo sư Moyar đã dứt khoát bác bỏ được các luận điểm của Trường phái chính thống đã khống chế việc viết sử Việt Nam. Giáo sư Owens đã liệt kê những luận điệu đó là:

- Đông Nam Á nói chung, và Miền Nam Việt Nam nói riêng, không thật sự cần thiết cho Hoa Kỳ về phương diện chiến lược.

- Thuyết “domino” sai.

- Chính phủ Miền Nam Việt Nam thối nát quá độ và không được dân chúng ủng hộ.

- Chính phủ Miền Nam Việt Nam thối nát nhất là Chính phủ Ngô Đình Diệm. Chính phủ Công giáo này chỉ giỏi trong việc đàn áp Phật giáo, và đang bị Cọng sản đánh bại.

- Hồ Chí Minh không phải là Cộng sản thực mà chỉ là một người có tinh thần quốc gia.

- Từ chối một số giải pháp quân sự là đúng vì tránh được can thiệp của Trung quốc.

- Việt Nam là một vũng lầy, và Hoa Kỳ chắc chắn sẽ bị sa lầy và đánh bại.

Giáo sư Moyar đã gạt bỏ tất cả các luận điệu trên đây, và biện bác rằng sự thất bại của Hoa Kỳ không phải là không thể tránh được, và Hoa Kỳ có rất nhiều cơ hội để giúp Miền Nam Việt Nam tồn tại, nhưng đã không thực hiện được mục tiêu vì sai lầm trong việc chọn chiến lược thích hợp. Và “sai lầm lớn nhất của chúng ta là đã để cho xảy ra cuộc đảo chính tháng 11 năm 1963 đánh đổ và sát hại Diệm; quyết định này đã làm cho ta mất đi những thắng lợi lớn lao đã đạt được trong 9 năm trước đó và xô Việt Nam vào một thời gian bất ổn và suy yếu dài”.Giáo sư đã trích một lời tuyên bố của giới lãnh đạo cọng sản nói lên sự hài lòng của họ được người Mỹ biếu cho họ một “món quà quý”: loại bỏ ông Diệm dùm họ. Họ nói: “người Mỹ đã làm một việc mà trong 9 năm trời chúng tôi làm không được, là: loại bỏ Diệm” (Moyar, tr.186)

Các giáo sư bình luận cũng đồng ý với Giáo sư Moyar. Giáo sư Owens viết:

Đóng góp lớn đầu tiên của Giáo sư Moyar là làm sáng tỏ sự thật: quyết định bỏ rơi và góp công vào việc giết ông Diệm là sai lầm tai hại nhất trong chiến tranh…Theo Trường phái chính thống ông Diệm là một tên bạo chúa không còn làm chủ tình hình trong nước được nữa, một người Công giáo hà hiếp quần chúng mà đa số theo Phật giáo. Giáo sư Mayor cãi rằng quan điểm này sai.Thật ra, ông Diệm là một lãnh đạo hữu hiệu. Ông đã dẹp tan những tổ chức phạm pháp trước khi ông nắm quyền. Ông không dân chủ. Nhưng đối với dân, ông chính thống vì ông xử dụng quyền hành một cách hữu hiệu và bảo vệ được an ninh cho dân chúng khỏi bị quân phiến loạn Cọng sản uy hiếp. Thật vậy, trong thời gian ông lãnh đạo chính quyền Miền Nam Việt Nam, lực lượng phiến loạn cọng sản có thể coi như đã bị đánh tan trước 1960.”

1962-63: Việt Nam ở thế thắng

Giáo sư Owens nói rằng quan điểm trên đây “rất khác” quan điểm của Trường phái chính thống, nhưng “ông Moyar đã có những nhân chứng rất tốt: họ chính là những người Cộng sản”. Giáo sư Moyar đã trích diễn tài liệu Cộng sản để cho độc giả thấy rõ rằng “Cộng sản đã đủ lương thiện để công nhận rằng họ đã không thành công trước khi xảy ra cuộc đảo chính năm 1963, và chính phủ đã giết và bắt làm tù binh vô số cán bộ của họ, đếm không xuể, khiến cho những kẻ còn sống sót phải bỏ hàng ngũ cọng sản ”.

Giáo sư Lewy cũng ghi nhận rằng “Dù Cộng sản dùng đường mòn Hồ Chí Minh đưa rất nhiều quân và khí giới qua Lào vào Nam, đến 1962, trong cuộc chiến chống Cộng sản, thế cờ đã lật ngược một cách ngoạn mục …[Nhưng] theo Ông Moyar cuộc đảo chính lật đổ ông Diệm do Lodge chủ trương là một sự sai lầm kinh khủng vì nó đưa đến một sự thất bại không đáng xảy ra”

Sự kiện trên đây là một điều mà các ký giả, học giả và viên chức Mỹ chống Ông Diệm, cùng nhhững người Việt Nam đã nghe lời xúi dục của họ tham gia và chủ trương đảo chính đã che đậy trong suốt mấy thập niên, và nay, nhờ sưu khảo của Giáo sư, mới được đưa ra ánh sáng. Mà những điều Giáo sư Moyar đã đưa ra không phản bác được vì Giáo sư nhấn mạnh rằng chính cọng sản Bắc Việt đã thú nhận như thế trong tài liệu của họ. Giáo sư viết:

“Những tin tức xuất phát từ phía cọng sản xác nhận rằng cho đến ngày đảo chính chính phủ Miền Nam đang ở thế thắng, nhưng đã mất thế đó một cách nhanh chóng sau đảo chính. Tháng 4 năm 1964, trong phúc trình về tình hình tổng quát, bộ chỉ huy Miền Nam của họ nói rằng Việt Cọng đã phải tranh đấu khó khăn trong năm 1962 và trong 10 tháng đầu năm 1963, nhưng sau ngày 1 tháng 11 năm 1963 họ đã chiếm lại được những vùng mà họ đã bị suy yếu”

Giáo sư Moyar cho biết rằng đoạn trên đây trích từ một tài liệu của Mặt Trận Giải Phóng về tình hình chiến cuộc từ 1961 đến 1964. Để làm sáng tỏ thêm sự thực với tài liệu của chính Cọng sản, Giáo sư Moyar đã trích dẫn chính tài liệu của Đảng Cọng Sản công bố từ Hà Nội vào tháng 3, năm 1965, lúc chính phủ Sài Gòn gần bị đánh bại. Tài liệu đó nhận định sự suy sập tình hình trong thời gian 16 tháng từ ngày ông Diệm bị sát hại như sau: “Cán cân lực lượng giữa Cách mạng Miền Nam và kẻ địch biến chuyển rất nhanh có lợi cho ta…Phần lớn lực lượng quân sự và bán quân sự của địch ở cấp xã và ấp chiến lược đã tan rã, và những gì còn lại đang tiếp tục tan rã…80% ấp chiến lược…đã bị phá tan, và phần lớn dân và đất ở vùng quê nay thuộc về vùng giải phóng của chúng ta”.

Giáo sư Moyar nói rõ rằng những nhận định trên đây trích từ các tài liệu chính thức của chính Đảng Cộng Sản (Một số văn kiện của Đảng Về Chống Mỹ Cứu Nước), của Đảng Ủy và Tư Lệnh Quân Khu V, của Lê Duẫn, của Hội Đồng Biên Soạn Lich Sử Nam Trung Bộ Kháng Chiến (muốn có chi tiết, đầy đủ, xin xem tác phẩm của Giáo sư Moyar, phần Trích Dẫn, tr, 469)

Dư luận quốc tế, không những Hoa kỳ và Tây phương, mà ngay cả Việt Nam , bị ảnh hưởng nặng của Trường phái chính thống, thường cho rằng Miền Nam Việt Nam đã bị bại trong cuộc chiến 1954-1975. Sự nhập chiếm Sài-Gòn ngày 30-4-1975 đánh dấu sự kết thúc một chiến tranh mà Cọng sản đã toàn thắng. Nhưng những tiết lộ của Giáo Sư Moyar nay cho thấy rõ rằng Miền Nam đã bị dồn vào thế bại vì, sau khi lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm, nhóm nắm chính quyền đã làm tan rã cơ cấu quân sự và hành chánh của Miền Nam, tạo điều kiện cho Cọng sản dễ dàng lùa quân vào tràn vào như vào như nơi không người. Tháng 3, 1965, Hoa Kỳ đã phải đưa quân vào chận đứng làn sóng cọng sản thì Miền Nam đã rơi vào tay cọng sản.

Sự can thiêp trực tiếp của Hoa Kỳ có hai hậu quả. Một là sự kiện Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp chiến đấu và nắm thực quyền chỉ huy ở Miền Nam biến chiến tranh thành một cuộc chiến tranh giữa Bắc Việt và Hoa Kỳ. Nhưng Tổng Thống Johnson lại tránh những quyết định quân sự khó khăn nhưng cần thiết để thắng, và chỉ muốn coi chiến tranh như một cuộc dẹp loạn nội bộ (counter-insugurgency) ở Miền Nam. Hai là nó lại tạo ra một tình trạng tâm lý làm cho Hoa Kỳ không chiến thắng được vì thiếu chính nghĩa trong một chiến tranh mà phe cọng sản có thể trình bày là một cuộc chiến tranh giải phóng thực sự. Rốt cục, Hoa Kỳ cũng bị bại.

Như vậy là thực sự có ba cuộc chiến tranh, hay là ba giai đoạn: từ 1954 đến tháng 11, 1963; từ 1-11-1963 đến tháng 3, 1965; từ tháng 3, 1965 đến 30 tháng 4, 1975. Giai đoạn từ 1962 đến tháng 11 năm 1963 là giai đoạn Miền Nam ở thế thắng, và nhờ đó , tồn tại thêm được một thời gian, nhưng suy sụp nhanh chóng. Nếu Hoa Kỳ không can thiệp Miền Nam Việt Nam chắc chắn đã mất ngay từ cuối năm 1965.

Ấp chiến lược: success story

Giáo sư Moyar viết:

Nhờ những thành quả tốt mà ông Diệm thực hiện được trong những năm 1962 và 1963, Việt Cộng không có khả năng đánh bại được chính phủ cho đến lúc mà ông Diệm bị sát hại, và trong một thời gian khá dài sau đó. Nếu ông Diệm còn sống, Việt Cộng có thể kéo dài chiến tranh nếu họ tiếp tục nhận được quân mới xâm nhập từ Miền Bắc và duy trì được căn cứ ở Lào và Cao Mên, nhưng rất khó tin rằng cuộc chiến sẽ đến một mức mà Hoa Kỳ phải đưa hàng trăm ngàn quân để cứu Việt Nam khỏi bị đánh bại, như là tình hình đòi hỏi lúc những kẻ thay thế ông cầm quyền. Thật vậy. Rất có thể là Miền Nam Việt Nam tồn tại được sau tháng 11 năm 1963 mà không cần gì đến sự trợ giúp của lục quân Hoa Kỳ. Những người kế vì ông Diệm từ tháng 11 năm 1963 đến lúc Hoa Kỳ can thiệp đã kém xa ông Diệm về hữu hiệu, và sự thua kém này đã khiến Hà Nội trút bỏ thái độ rất dè dặt của họ trong việc đưa quân vào Miền Nam. Nếu Quân đội Bắc Việt xâm lăng Miền Nam sau 1963 mà ông Diệm còn cầm quyền, Miền Nam rất có thể ngăn chận cuộc tấn công đó với sự trợ giúp của không lực Hoa Kỳ mà không cần lục quân Hoa Kỳ như năm 1972.” (Moyar, tr. 287)

Sự sưu khảo của Giáo sư Moyar đưa ông đến kết luận rằng một yếu tố lớn trong sự thành công của chính phủ Diệm trong sự đánh bại Cộng sản là Ấp chiến lược. Giáo sư Moyar đã nói rất nhiều về khía cạnh này, vì trọng tâm tác phẩm của ông là vấn đề quân sự. Nhưng vì trong giới hạn bài này không thể đi vào chi tiết, ở đây chỉ nói qua về mục này thôi. Độc giả, đặc biệt là độc giả quân nhân, nên đọc hai chuơng 9 và 10 nói về mục này, vì khác với những luận điệu của Trường phái chính thống, trong thời Đệ Nhứt Cọng Hoà binh sĩ Miền Nam đã lập được những chiến công rạng rỡ, nhưng những tin tức tốt này bị những kẻ ghét ông Diệm ém nhẹm trong thời gian ông Diệm còn sống, và bị sửa đổi đi sau vụ đảo chính 1963, và sau 1975 thì tất nhiên họ nói voi nói vượn gì về Miền Nam Việt Nam cũng được.

Bài này chỉ trích đoạn quan trọng nhất về vấn đề này của Giáo sư Moyar về Ấp chiến lược, đặc biệt là vì trong nửa thế kỷ nay, hầu hết mọi người, trong đó có rất nhiều người Việt, đã được nghe không những Trường phái chính thống, mà ngay cả những tướng cầm đầu vụ đảo chính lật đổ ông Diệm lớn tiếng tố chương trình Ấp chiến lược là một thất bại nặng. Giáo sư Moyar viết:

“Những quan sát viên Hoa kỳ đã đi thăm Ấp chiến lược trong mỗi tỉnh của Việt Nam trong bán niên đầu của năm 1963 nhận thấy rằng chính quyền sở tại đã được cãi thiện một cách ngoạn mục (dramatic) vượt cả mức ấn định, trong khi lực lượng dân quân đã tỏ ra có quyết tâm và tài năng đẩy lui Việt Cộng. Những quan sát viên cũng nhận thấy rằng dân chúng thôn quê và chính quyền địa phương tin tưởng chính phủ mạnh hơn và tinh thần họ cao hơn. Tháng 5, năm 1963, Đại tá Ted Serong, môt chuyên gia về đánh du kích làm trưởng phái bộ huấn luyện Úc ở Nam Việt Nam đã nói với nhân viên cao cấp Hoa kỳ ở Washington rằng “chuyện thành công (success story) lớn lao nhất trong chiến tranh Việt Nam là chuyện chương trình Ấp chiến lược, và chuyện này chưa được nói đến đúng mức của nó”. Sir Robert Thompson, [chuyên viên về du kích đã đáng bại phiến loạn cọng sản Mã Lai], một người đã tỏ ra bi quan trong năm 1961 và đầu năm1962 như nhiều nhà quan sát khác, nay đã tỏ ra lạc quan và tuyên bố rằng “phải công nhận rằng chính quyền Việt Nam đã tỏ ra có nghị lực khác thường”. Ông nghĩ rằng chính phủ đang thắng và từ đây đến giữa 1964 họ có khả năng ngăn chận không cho Việt Cọng tiếp xúc với dân chúng nữa ở Đồng bằng Sông Cửu Long”. (Moyar, tr.107)

Ở đây câu hỏi đương nhiên phải đặt ra ngay là: “tại sao một dử kiện quan trọng mức đó mà dư luận, và đặc biệt nguời Việt Nam, không được biết đến?” Và giải đáp là: vì các dữ kiện đó đã bị chính quyền Hoa kỳ lẫn chính quyền Việt Nam và các giới báo chí và đại học chính thống xuyên tạc. Giào sư Moyar đã giải thích sự xuyên tạc đó như sau:

“Điểm chót đáng ghi là những người thay thế ông Diệm quả quyết rằng họ phải làm cuộc đảo chính lật ông Diệm tháng 11 vì tình hình suy sụp lớn bắt buộc họ phải làm như thế; nhưng tất cả những bằng chứng về sự suy sụp tình hình này đều do họ cung cấp…họ đã trở cờ chống ông Diệm vì họ muốn làm vừa lòng người Mỹ, và sau cuộc đảo chính họ phải tìm đủ mọi cách để khỏi mất thể diện đối với người Mỹ và với đồng hương của họ. Cũng như Halberstam và những người Mỹ đề xướng đảo chính, những người chủ mới của Việt Nam biện bác rằng tình hình suy sụp thê thảm vào cuối tháng 11 không khác gì tình hình trước đó. Điều này không đúng với sự thật. Nhưng họ phải biện bác như vậy để tránh tiếng là họ đã gây ra vấn đề mới. Một nhận định Mỹ về Ấp chiến lược vào đầu tháng 11 ghi rằng vì “lý do chính trị hoặc cá nhân” chính phủ Minh đã thay thế các thống kê nguyên thủy của thời gian trước đảo chính bằng những thống kê mới, tệ hơn, để “hạ uy tín của chế độ cũ” và tạo ra “một căn bản mới có lợi cho chính phủ mới”. Sự mô tả lừa dối của những kẻ đảo chính, Mỹ cũng như Việt, về tình hình trước đảo chính sẽ ảnh hưởng nặng đến các phân tách về chế độ ông Diệm rất lâu sau này” (Moyar, tr.285)

Các ký giả Hoa Kỳ láo khoét

Riêng Về những ký giả đả đóng một vai trò then chốt trong vụ đảo chính ông Diệm bằng cách lừa phỉnh dư luận Hoa kỳ, Halberstam, Sheehan, Karnow Giáo sư Moyar viết:

Một khi cuộc đảo chính mà họ cổ võ đưa đến một loạt chính phủ bất lực và làm cho

họ mang tiếng là đã làm cho Việt Nam bị tê liệt, Halberstam, Sheehan, và Stanley

Karnow phải nói xấu ông Diệm để làm cho dư luận nghĩ rằng trước cuộc đảo chính Việt

Nam đã suy yếu đến mức vô tuyệt vọng cứu chữa gì được nữa. (Moyar, tr..xvii)

Giáo sư Moyar nói Halberstam and Sheehan, hai ký giả đã đóng một vai trò then chốt trong sự làm cho dư luận Hoa Kỳ và Việt Nam chống ông Diệm, đã đưa tin tức “trắng trợn không đúng” về vụ Phật giáo và tình hình chính trị Việt Nam, mà một phần lớn do những tên mật vận cộng sản Phạm Xuân Ấn và Phạm Ngọc Thảo cung cấp cho họ…Họ “thường thổi phồng những khuyết điểm của chính phủ Việt Nam”, cung cấp tin tức “lừa dối”, “không lương thiện”, “láo khoét”, “bôi lọ ông Diệm “ để tạo cảm tưởng là trước đảo chính tình hình Việt Nam đã lâm vào thề tuyệt vọng rồi”. Họ đã căn cứ vào những tin “rất lệch lạc” của [cố vấn Mỹ John Paul] Vann cung cấp để mô tả trận Ấp Bắc, làm cho độc giả cho đó là báo cáo được chấp nhận về trận này”. Nhưng sự thật không phải vậy. Giáo sư đã dành hai chương để nói về vấn đề nà y. (Về chi tiết, xin xem: Moyar, tr. xvi-xvii và hai chương 9 và 10)

Về vụ Phật giáo Giáo sư Moyar viết: “Những người chỉ trích ông Diệm cho rằng phong trào Phât giáo phản đối 1963 xuất phát từ sự bất mãn của dân chúng vì chính sách không khoan dung về tôn giáo của chính phủ, nhưng đó là một quan điểm sai lầm”. (Moyar, tr. xvi) Vấn đề này đã được bàn nhiều ở các nơi khác nên không cần nói đến nhiều ở đây. Nó chỉ được nêu lên để cho thấy quan điểm của Giáo sư là một quan điểm hoàn toàn ngược với quan điểm chính thống đả khống chế dư luận rất lâu. Trong chiều hướng này, tưởng cũng nên đề cập đến quan điểm xét lại mà Giáo sư Moyar đưa ra về thái độ của giới có uy thế (elite) trong xã hội Việt Nam : ông là một trong những học giả hiếm có hiểu rõ rằng muốn viết về Việt Nam một cách chính xác cần phải chú trọng những yếu tố văn hoá và tâm lý chi phối hành vi của người Việt.

Nói về nhận định sai lầm về Việt Nam của ký giả Hoa Kỳ đã ảnh huởng thế nào về thái độ chống đối của giới có uy thế trong xã hội Việt Nam đối với ông Diệm , Giáo sư Moyar viết:

“Vì họ không biết gì về khác biệt văn hoá giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, họ đã chỉ trích ông Diệm không chịu làm như chính phủ Hoa Kỳ. Thật ra, trong việc giải quyết các vấn đề Việt Nam, phương pháp chính trị mà ông Diệm áp dụng hữu hiệu hơn phương pháp của Hoa Kỳ rất nhiều. Giới có uy thế trong xã hội Việt Nam thường đọc những bài dịch từ báo Hoa Kỳ cho rằng báo New York Times và các báo Hoa Kỳ khác là phát ngôn viên của chính phủ Hoa Kỳ. Kết quả là những bài báo nói không tốt về chính phủ ông Diệm làm cho người Việt Nam mất tin tưởng vào chính phủ và khuyến khích những kẻ muốn lật đổ chính phủ”. (Moyar, tr. xvi)

Kết luận

Giáo sư Owens đặt câu hỏi: “Tại sao ông Diệm lại bị bôi xấu như ta đã thấy?” Nếu ta nới rộng vấn đề để bao gồm toàn Việt Nam chớ không riêng gì Ông Diệm, câu hỏi trở thành:”Tại sao những kẻ thuộc Trường phái chính thống đã xuyên tạc, ém nhẹm, bóp méo sự thật, về Việt Nam, như Giáo sư Moyar đã làm sáng tỏ?”

Giáo sư Moyar đã giúp chúng ta thấy được một số khía cạnh của vấn đề mà trưóc kia ta không hề biết vì không hề nghe nói đến, hay chỉ được đọc, nghe những tường thuật lệch lạc, xuyên tạc, và từ đó, đã có những ý kiến, quan điểm rất lầm, khiến ta lấy những quyết định tai hại cho Việt Nam tự do và cho ngay bản thân chúng ta -- tố cáo, chống đối, vu khống, phá hoại, lật đỗ nhau, gây phân hoá và hỗn loạn -- làm cho cơ cấu quốc gia tan rã, tạo điều kiện cho cọng sản tung hoành, biến thắng thành bại.

Tác phẩm của Giáo sư Moyar, dài hơn 500 trang, rất phong phú, giúp cho những ai cần tranh luận với những người có quan điểm chính thống những chi tiết, dữ kiện, lối lập luận thích hợp không để cho những người này áp đảo mình và áp che lấp chính nghĩa như trước nữa. Ai không có thì giờ nhiều, và không cần đi sâu vào vấn đề chỉ cần đọc chương dẫn nhập (Preface). Chương này tương đối ngắn, chỉ có lối 20 trang, nhưng đã tóm lại nội dung của sách một cách rất gọn gàng.

Tác phẩm của Giáo sư Moyar là một bài học nhắc nhủ người Việt chúng ta phải dè dặt, thận trọng, cân nhắc, phân tách và kiểm chứng kỹ càng, khi chúng ta nghe hay đọc những tin tức do viên chức và báo chí ngoại quốc cung cấp, để tránh bị dùng làm công cụ cho những âm mưu, kế hoạch nhằm thực hiện những mục tiêu -- quyền lợi, thương ghét -- riêng của những người này, trong khi xứ sở, và ngay bản thân chúng ta phải gánh lấy những thiệt hại nặng nề.

Cuối cùng, tác phẩm của Giáo sư Moyar nhắc nhở chúng ta rằng xét lại lịch sử, và tất cả mọi sự, một cách khách quan, vô tư, khoa học, không nhân nhượng là một điều rất cần để biết rõ sự thật và thực tại, vì chỉ có biết tường tận những chi tiết về một vấn đề, chúng ta mới có thể giải quyết được vấn đề đó một cách êm đẹp, vẹn toàn và dứt khoát.

Ottawa, tháng 2, 2007 6262 chữ

Thông Luận…………………

Thế kỷ 21……………………


1 Mark Moyar, Triumph Forsaken, the Vietnam War 1954-1965, Cambridge University Press, 2006.

2 A.O.Edmonds, “Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954-1965”, Library Journal Reviews, September 1, 2006.

Mackubin Thomas Owens, “A Winnable War, The argument against the orthodox history of Vietnam”, Weekly Standard, Volume 012, Issue 17, 01/15/2007.

Guenter Lewy, “The War That Could Have Been Won”, The new York Sun, November 24, 2006.

Thomas Alan Schwarz: trích ở bìa giói thiêu sách Triuph Forsaken, ấn bản 2006.


motgoctroi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét