Thứ Hai, 14 tháng 11, 2011

Tiếng kêu cứu lạc lõng

CHÚNG TA ĐANG XẺ THỊT TỔ QUỐC MÌNH ĐỂ SỐNG

Ngô Minh



Cách đây vài ba năm, báo chí đưa tin làm tôi giật mình: Đến năm 2012, Việt Nam phải nhập than đá ! Thế mà đến năm 2011, nước ta đã phải nhập hàng nghìn tấn than đá từ nước ngoài. Ai cũng lo, ai cũng bức xúc. Ôi thuở ấu thơ tôi được các thầy dạy :” Việt Nam ta rừng vàng biển bạc”. Bây giờ thì sắp cạn rồi sao ? Nhìn lại đổi mới từ năm 1986 đến nay, một thực trạng đau lòng đang diễn ra khắp nơi : Chúng ta đã khai thác, buôn bán tài nguyên quốc gia một cách ồ ạt, vô tội vạ. Dường như thu nhập GDP đất nước đều do buôn bán tài nguyên mà có, còn hàng hoá sản phẩm mang hàm lượng chất xám cao chiếm tỷ lệ không đáng kể. Nghĩa là từ “đổi mới” đến nay, chúng ta đang sống nhờ bán tài nguyên, chứ chẳng làm được thương hiệu gì bền vững có tầm cỡ thế giới cả. Nhìn qua Hồng Kông, Ma Cao,Singapore , Nhật Bản… mà thương cho đất nước mình. Người ta chẳng có nhiều tài nguyên khoáng sản, sao người ta giàu thế . Còn mình bán tài nguyên mà ăn, rồi con cháu vài thế hệ sau ăn không khí à ?




Tài nguyên quốc gia do mồ hôi xướng máu bao đời giành được gồm : trời, đất , núi, nước, rừng, biển, khoáng sản và môi trường. Trong hoà bình xây dựng 30 năm nay, do ấu trĩ trong nhận thức và non kém về quản lý, chúng ta tiếp tục tàn phá tài nguyên dữ dội hơn, nặng nề hơn . Hình thế núi sông Việt Nam đang thấy đổi từng ngày, đang bị cày xới nham nhở !

20 năm qua có rất nhiều “phong trào” bán tài nguyên để “làm ngân sách” xảy ra rầm rộ. Như khai thác gỗ rừng để xuất khẩu ồ ạt. Quốc doanh khai thác xuất khẩu, “hợp tác xã” khác thác xuất khẩu, tư nhân núp bóng nhà nước khai thác, xuất khẩu…Gỗ cứ kìn kìn từ rừng miền Trung, rừng Tây Nguyên đổ về các cảng biển. Các đầu nậu gỗ, những người cấp phép khai thác gỗ, cấp quota xuất khẩu gỗ giàu lên từng ngày một. Đến khi “ngộ ra”, ban hành lệnh cấm, thì rừng đã bị “ “bán ăn” gần hết. Thế là lại phải “làm dự án” trồng 5 triệu hec-ta rừng gần chục năm nay vẫn không thành .



Hết rừng rồi thì bán đất rừng. Hơn 300.000 héc ta rừng đầu nguồn đã bị các tỉnh bán cho doanh nhân Trung Quốc khai thác 50 năm. Nghĩa là 50 năm , chúng muốn biến mảnh đất rừng đó thành căn cứ quân sự, lô cốt, hầm ngầm.v.v… là quyền của họ. Hết nước rồi non nước ơi !

Bán hết rừng đến bán khoáng sản dầu thô, than đá, cát, quặng ti-tan, quang a-pa-tít, quặng vàng…Nghe thông tin báo chí về việc xuất khẩu than lậu ở Quảng Ninh mà choáng váng . Trữ lượng than của ta ở Quảng Ninh có được bao lăm mà hô hào thành tích “ khai thác và xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước”?; rồi quản lý yếu kém để cho hàng trăm công ty “ma” xuất khẩu than lậu một lúc hàng trăm tàu. Sao coi tài nguyên quốc gia “như vỏ hến” vậy ?
Người bán gỗ, bán than, thì có kẻ lại bán núi, bán đất ruộng làm giàu. Xem ra bán núi bán đất dễ giàu có hơn. Trong những chuyến đi thực tế ở vùng Đông Bác hay Thanh Hóa, Ninh Bình…, tôi thấy nhiều ngọn núi bị san bằng trơ trọi, để khai thác đá sản xuất xi măng, đá xây dựng. Bây gìờ tỉnh nào cũng hai ba nhà máy xi măng, hàng chục công trường khái thác đá hàng ngày ra sức san phá núi. Có tỉnh bán luôn cả ngọn núi cho nước ngoài làm xi măng, không chỉ bán phần dương mà còn bán cả phần âm tới 30 mét sâu, nghĩa là 50 năm sau, núi thành hồ ! Hình sông thế núi Việt Nam ngàn đời hũng vĩ , bây giờ đang bị xẻ thịt nham nhở. Liệu con cháu tương lai sẽ sống như thế nào, có còn hình dung ra nước non Việt tươi đẹp xưa nữa không, khi mà quanh chúng núi non bị gậm nhấm, thân thể Tổ Quốc ghẻ lở, xác xơ ?. Tài nguyên của mình, nước ngoài đến khai thác rồi chế biến thành sản phẩm xuất khẩu của họ, trong lúc hình hài non sông bị xâm hại. “Bán núi” để ăn như thế có đau núi quá không?



“Bán đất” mới là cuộc tỉ thí với tương lai khủng khiếp nhất. Tỉnh nào cũng có vài ba Khu công nghiêp, nhưng chẳng làm ra sản phẩm xuất khẩu nào có thương hiệu cả vì máy móc lạc hậu, bán trong nước cũng chẳng ai mua . Tỉnh nào cũng có ba bốm sân golf. Rồi dự án mở rộng đô thị lên gấp đôi gấp ba, dự án khu biệt thư, …đang làm cho đất nông nghiệp, đất trồng lúa trong cả nước, đất trồng cây ăn trái ở Nam Bộ đang thu hẹp với tốc độ chóng mặt. mỗi năm có từ 73.000- 120.000 ha đất nông nghiệp bị thu hồi, bịu chuyển đổi. Mở rộng đô thị thì đất ruộng thành đất thành phố, bán với giá cao hơn. Đua nhau mà ăn chia, lấn chiếm, đẩy nông dân ra khởi mảnh đất ngàn đời sinh sống của họ. Thế là khẩu hiệu của Cộng Sản “dân cày có ruộng” thành trò đùa lịch sử.

Vì mục tiêu tăng GDP, tăng thu ngân sách , các tỉnh đang thi nhau bán đất nông nghiệp một cách vô tội vạ . Mất đất, chỉ nông dân và nhà nước là thua thiệt. Ruộng mình đó, đất mình đó, bỗng nhiên bị mất trắng tay . Tiền đền bù giá bèo không đủ mua đất mới để xây nhà, nói chi đến làm ăn sinh sống



Hết bán rừng, than, ti-tan, đá, người ta con bán cả bo-xit Tây Nguyên, thứ mà cách đây mấy chục năm, khối Comicom ( Khối kinh tế các nước XHCN) đã ngăn không cho khai thác, họ sợ làm hư hỏng môi trường và văn hóa Tây Nguyên. Nhưng bây giờ thì bất cần tương lai Tây Nguyên , bất cần hàng ngàn trí thức tâm huyết với đất nước kịch liệt phản đối, họ vẫn khai thác. Nhưng, bọn người được quyền đầu tư khai thác ấy lại là bọn giặc truyền kiếp phương Bắc ngàn đời của Dân tộc ta mới đau, mới lo chứ.Chúng thâm hiểm lắm, người ơi. Chúng mang hàng ngàn người ( dân binh ?) vào Tây Nguyên, với kế hoạch làm chủ tây Nguyên của Việt nam. Các nhà chiến lược quân sự thường nói :” Ai làm chủ Tây Nguyên sẽ làm chủ Đông Dương”. Chao ôi, từ việc bán tài nguyên đến “bán nước” chỉ còn một khoảng cách mong manh như sợi chỉ !

Nước là loại tài nguyên quý giá cũng đang bị xâm hại nghiêm trọng. Hiện nay tất cả các con sông đều “đang chết dần” vì ô nhiễm do chất thải công nghiệp, bệnh viện chưa qua xử lý đều thải trực tiếp ra sông. Mạch nước ngầm đang xuống thấp chưa từng có do khai vô tội vạ. Rồi “phong trào” phát triển thuỷ điện tùm lum làm cho mực nước ở đồng bằng giảm xuống. Đến cả sông Hồng cũng cạn trơ đi bộ qua được. Có tỉnh làm đến hàng chục nhà máy thuỷ điện. Được điện thì mất lúa vì đất đai khô cằn không có nước tưới, bị sa mạc hoá không trồng lúa, trồng màu được. Muốn phát điện thì mực nước tích ở hồ phải cao hơn mực nước chết. Ví dụ Hồ thuỷ điện Hoà Bình bình thường mực nước cao 115 mét. Mực nước chết cao 80 mét. Nghĩa là để có điện, phải tích nước cao hơn 80 mét. Cái lượng “nước chết” cao 80 mét ấy chứa hàng tỷ mét khối không thể đổ về những cánh đồng lúa được, thì ruộng khô hạn là phải ! Mùa lũ, nhà máy điện xả lũ để bảo vệ đập, thế là không chỉ xóm làng mà cả xá cũng ngập chìm trong nước. Làm thủy điện vô tội vạ cũng là một cách “ăn tài nguyên nước” qua dự án đầu tư. Không “ăn” dự án thì các quan huyện, quan tỉnh, quan trung ương tiền đâu mà làm nhà lầu, mua xe hơi, sống cuộc sống giàu sang phú quý, cho con đi học các trường nổi tiêngs thế giới như Ha-vớt, Sóc-bon ?

Chúng tôi khẩn thiết đề nghị Chính phủ và chính quyền các địa phương phải có một chiến lược khai thác tài nguyên lâu dài và chỉ đạo thực hiện thật quyết liệt mới mong không bắn đại bác vào tương lai. Chúng tôi đề nghị :
– Kiểm kê lại tài nguyên đất nước để có kế hoạch bảo vệ. Quy hoạch chi tiết ngay các vùng đất nông nghiệp lâu dài, vùng núi non hung vĩ, và cấm tiệt việc khai thác bừa bãi.
– Phải dừng ngay các dự án khai thác Bo-xít Tây Nguyên vì với sự án này, người Trung Quốc không cần bo-xít , cái mà họ cần là địa bàn Tây Nguyên, đó là điều mà nhiều trí thức lớn đã phân tích, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đã có thư cảnh báo. Phải thu hồi các diện tích đất rừng bị bán cho nước ngoài, dù phải bồi thường hợp đồng , vì chúng đang đe dọa đến vận mạng, sự sống còn của đất nước.
-Hạn chế tối đa, kiểm tra chặt chẽ các dự án đầu tư FDI vào lĩnh vực khai thác tài nguyên ( như xi măng, quặng ti tan, và các loại khoáng vật khác ) , khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực có hàm lượng chất xám cao như công nghệ thông tin, sản xuất hàng tiêu dùng. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài để làm giàu cho đất nước. Chúng ta phải hướng nền kinh tế theo cách làm của Nhật Bản, Singapor , Hồng Kong, những nước ít tài nguyên nhưng biết cách làm giàu bằng trí tuệ.

Ôi, giá mà tiếng kêu của tôi đến được tai những người đang cầm vận mệnh đất nước trong tay .
N.M
http://ngominhblog.wordpress.com/2011/11/10/chung-ta-dang-xẻ-thịt-tổ-quốc-minh-dể-sống/#comment-1516

Điếc Đui Câm



Di tích Hoàng thành thời Lê đã bị san phẳng

Đoạn Hoàng thành vừa bị phá. (Ảnh: Internet).
"Di vật tìm thấy tại hiện trường xây dựng trên đường Hoàng Hoa Thám đoạn cắt đường Văn Cao, Hà Nội cho thấy đây chính là Hoàng thành (lớp tường thành thứ hai trong ba lớp tường thành) thời Lê. Đoạn thành này có phải Hoàng thành thời Lý Trần hay không còn phải nghiên cứu thêm, song là của Hoàng thành thời Lê thì chắc chắn," giáo sư Phan Huy Lê - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam kết luận sơ bộ sau khi đến công trường vào chiều 29/4.

Vừa xuất lộ đã bị phá

Những hiện vật tìm thấy trên công trường xây dựng đường giao thông trên chỉ là những mảnh còn lại sau khi máy xúc đã cào, phá, và đổ đi khối lượng lớn tường thành. Các tầng văn hóa - cuốn sử để lại cần được các nhà khảo cổ nghiên cứu - cũng theo đó bị xúc đi theo. Một nền bê tông rộng cũng đã được đổ, như ngăn cản bất cứ nhà khảo cổ nào muốn thực hiện việc khai quật. Chỉ còn chút ít thành sót lại.

Phó giáo sư-tiến sĩ Vũ Văn Quân, Phó chủ nhiệm khoa Lịch sử (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội) không khỏi ngậm ngùi: “Bao lâu chúng ta cứ tìm kiếm những đoạn thành đã mất. Trong khi đó, thành còn ngay đây thì lại không giữ gìn được.”

Giáo sư-tiến sĩ Tống Trung Tín nhận xét về những gì còn lại tại hiện trường: “Tầng đất đắp của thành rất rõ. Tầng đất đắp này gồm đất thịt và thỉnh thoảng lẫn gạch. Thành đắp đất thịt như vậy là kiểu thành xây dựng rất kỳ công. Trong lòng tường thành có những di vật có tính chất niên đại và phản ánh quá trình đắp lớp thành này. Nhìn sơ bộ, ta thấy chủ yếu là di vật thời Lê, một ít thời Trần, thời Lý và tiền Thăng Long nữa.”

Giáo sư Phan Huy Lê kết luận: “Theo bản đồ Hồng Đức thì đoạn thành bị phá này chắc chắn trăm phần trăm là của Hoàng thành. Đoạn thành này có phải là Hoàng thành Lý Trần chưa thì còn phải nghiên cứu thêm song việc nó là Hoàng thành thời Lê thì không cần phải bàn cãi gì nữa. Các di vật tìm thấy tại công trường là di vật thời Lê. Viên gạch tìm thấy chính là gạch vồ thời Lê. Ngoài ra còn có di vật thời trước nữa. Căn cứ theo nguyên tắc lấy di vật thời muộn nhất làm thời hiệu thì đây là thành thời Lê.”

Chính vì thế, theo giáo sư Lê, các thông tin từ đoạn thành nói trên có thể cung cấp nhiều cơ sở để nghiên cứu nhiều nghi vấn về Hoàng thành. Tuy thành đã bị phá tan hoang và gần như san phẳng nhưng nếu khai quật sâu hơn vẫn còn có thể tìm được các tầng văn hóa.

“Qua nhiều thăng trầm lịch sử, hầu hết các di tích trên bản đồ Hồng Đức đã vĩnh viễn mất đi, thì đoạn thành còn sót lại mang thêm nhiều ý nghĩa lịch sử. Đối với thế giới, chuyện một tòa thành được vẽ trên bản đồ 500 năm trước, lại sừng sững tồn tại giữa phố xá trung tâm thủ đô của một nước cũng là hiện tượng hy hữu,” Phó giáo sư-tiến sĩ Trịnh Sinh (Viện Khảo cổ học) nói.

Bên cạnh đó, đoạn Hoàng thành này cũng có những giá trị riêng rất độc đáo.

“Một đoạn thành vừa là Hoàng thành, vừa là vòng loa thành, vừa kiêm chức năng giữa thành và đê là hiện tượng tương đối hiếm trên thế giới. Nếu có thể giữ được cũng là nét độc đáo của Thủ đô,” ông Tín khẳng định.

Hội Khoa học Lịch sử kiến nghị bảo tồn

Không chỉ riêng các nhà khoa học lo lắng cho di tích, rất nhiều hộ dân sống quanh di tích cũng đã lên tiếng cho sự sống còn của nó. Hơn 50 hộ dân đã cùng ký đơn kiến nghị gửi đến Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Khảo cổ học Việt Nam yêu cầu các nhà khoa học vào cuộc để ngăn chặn việc phá di tích.

Bản thân Phó giáo sư-tiến sĩ Trịnh Sinh cũng đã lên tiếng trên báo chí cảnh báo về việc mất di tích ngay sau khi thi công làm phát lộ một vệt gốm dài với nhiều di vật.

Phó giáo sư-tiến sĩ Hán Văn Khẩn lo lắng: “Trước thềm kỷ niệm nghìn năm Thăng Long lại phá đi di tích liên quan trực tiếp đến nghìn năm thì thật đáng lo ngại. Nhất là khi tất cả đều cố gắng chu toàn cho đại lễ thì ngay tại Hà Nội, các cơ quan có trách nhiệm lại làm ngơ, hoặc không biết để đến nỗi mất di tích.”

Đánh giá trách nhiệm của đơn vị thi công và nhà quản lý, giáo sư Phan Huy Lê nói: “Về quyết định thực hiện xây dựng đoạn đường, chiểu theo Luật Di sản mà nói thì họ không vi phạm vì đoạn thành trên chưa được xếp hạng di tích. Hơn nữa, với nhà quản lý thì có thể họ cho rằng đây chỉ là đường giao thông.”

“Mặc dù vậy, sau khi đào lên, nhất là sau khi có nhà khoa học lên tiếng trên báo chí, phải dừng việc xây dựng ngay lập tức. Trong Luật Di sản có quy định nếu xây dựng lộ ra các hiện vật có khả năng là di tích, di vật thì việc thi công phải tạm dừng để các cơ quan chuyên môn kiểm tra. Nếu đúng đó là di tích, di vật thì công trình phải dừng lại,” giáo sư Lê phân tích.

Giáo sư Phan Huy Lê cũng đề nghị cơ quan chức năng khẩn trương làm hồ sơ công nhận di sản cho các đoạn khác của Hoàng thành hiện còn tồn tại. Ông cũng đề nghị các nhà khảo cổ khẩn trương lập bản đồ quy hoạch khảo cổ học di tích. Điều này sẽ giúp các nhà quy hoạch rõ hơn vị trí của những di tích khảo cổ để có thái độ ứng xử đúng đắn về văn hóa cũng như đúng Luật Di sản.

Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Viện Khảo cổ Việt Nam cho biết sẽ làm văn bản kiến nghị dừng thi công công trình để tổ chức khai quật nghiên cứu cũng như cứu lấy những đoạn hoàng thành còn lại./.

Kiều Trinh (Báo Tin Tức/Vietnam+)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét