Phạm Thảo Nguyên
LTS.
Người ta biết nhiều đến Nhất Linh như một nhà văn thủ lĩnh nhóm Tự Lực
Văn đoàn, người đã cùng các bạn văn tạo ra một cuộc cách mạng trong văn
chương và ngôn ngữ Việt Nam những năm 30 của thế kỷ trước, mà ảnh hưởng
còn sâu rộng cho tới bây giờ. Nhưng có lẽ ít người biết hơn, tờ tuần
báo mà ông làm làm chủ bút, tờ Phong Hoá (và hậu thân của nó là tờ Ngày
Nay), nơi quy tụ các cây bút của TLVĐ và bè bạn, cũng là tờ báo trào phúng
đầu
tiên của
nước ta. Mục đích này của báo được quảng bá lần đầu trong
Phong Hoá số 13 (số cuối cùng do ông Phạm Hữu Ninh, người sáng lập báo
điều khiển, sau đó bán lại cho Nhất Linh) :
Bàn
một cách vui về các vấn đề cần thiết
- Xã
hội, chính trị, kinh tế - nói rõ về hiện tình trong nước.
Hai "nhân vật" chủ chốt của biếm hoạ
Việt Nam chính cũng được sinh ra trên các trang báo Phong Hoá
và từ đó đi vào văn học, vào đời sống thường ngày của người
Việt : Lý Toét và Xã Xệ. Nhất Linh, dưới tên hoạ sĩ Đông Sơn, chính là
cha đẻ của Lý Toét. Nhân kỉ niệm lần thứ 49 ngày ông qua đời (7.7.1963
- 7.7.2012), Diễn Đàn trân trọng giới thiệu với bạn đọc bài biên khảo
dưới đây của tác giả Phạm Thảo Nguyên, cùng với bài của
Nguyễn Tường Thiết về cái chết của ông và của Thái Kim Lan, hồi ức về cuộc tiễn đưa nhà văn của nhân dân Huế.
Cùng với cụm ba bài viết này, chúng tôi
cũng vui mừng thông báo với bạn đọc, hai tờ Phong Hoá và Ngày Nay đã
được một nhóm bạn tâm huyết với TLVĐ (trong đó có chị Phạm Thảo Nguyên)
số hoá hoàn toàn, và sẽ được công bố trên mạng từ ngày 22.9 năm nay, kỉ
niệm 80 năm ngày tờ Phong Hoá ra số đầu tiên dưới quyền điều khiển của
chủ bút Nhất Linh (số 14, ra ngày 22.9.1932). Chi tiết sẽ được thông báo sau.
Họa sĩ Đông Sơn vẽ ra Tý
Toét vào đầu thập niên 1930, và
tờ báo đầu tiên đăng tranh Lý
Toét, là Phong Hóa. Đó là hai
điểm chính, về cụ Lý được
dân chúng yêu chuộng đặc biệt
từ gần tám chục năm nay. Tìm đọc
lại báo Ngày Nay Xuân 1940, cũ, mới
biết Nhất Linh có giải thích rõ
ràng chi tiết về lý lịch của
cụ, trong bài viết “Lịch sử Lý
Toét…”, Báo Xuân Ngày Nay
1940, tóm tắt như sau:
Tên Lý Toét ra đời trước,
rồi hình người Lý Toét mới
ra đời sau.
Năm 1930, trong báo Tứ Dân, người
đẻ ra “tên-Lý Toét” lại
là Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu (chuyên
viên thơ trào phúng của Tự Lực
Văn Đoàn), từ “đẻ ra”
sáng tác bởi Nhất Linh. Họa sĩ
Đông Sơn và bà Phụ Nữ Thời
Đàm đẻ ra “hình-Lý Toét”
sau. Sự tích là: Đông Sơn một
hôm đang xem báo Phụ Nữ, vẽ
nghịch một ngườì nhà quê,
thấy hay hay nên xé ra vứt vào ô
kéo, chưa biết để làm gì.
“Quý vị ơi! Nhìn hình dưới
đây đi! Nó đấy, chính nó
đấy, mảnh giấy nhật trình có
chân dung “thủy tổ” của tất
cả các Lý Toét sau này đấy!”:
Đúng là không có bà Phụ
Nữ Thời Đàm thì không có
Lý Toét, Nhất Linh nói chí lý
thật! Trên bức hình đó Lý
Toét trẻ hơn sau này nhiều, đã
được mặc áo dài khăn đóng,
như mọi cụ già thời đó. Lại
có đủ cả râu ria, búi tóc,
cụ xách thêm đôi dép da gia định
và cắp cái ô đen: Cá tính
được định hình. Cụ thường
xách dép lên, đi đất, vì
ngại chóng hỏng đôi dép cũ.
Cái ô cũng ít khi mở ra, cụ để
dành đánh chó và đeo lên
vai cho oai. Nhưng chúng cũng làm khổ
cụ, vì cứ bị tụi trộm nhỏ
nhít đặt vào tầm ngắm, quấy
phá luôn luôn. Nào dép, nào
ô, nào khăn cứ bị trộm rình!
Chắc các bạn còn nhớ: Bắt đầu
từ Phong Hóa số 14, ra ngày 2 tháng
9-1932 chủ bút mới là Nguyễn Tường
Tam. Cùng các em là Hoàng Đạo
Nguyễn Tường Long và các bạn như
Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, Khái Hưng
Trần Khánh Giư… mới phụ trách
tờ Phong Hóa. Ngay trong số 14 này, ta bắt
gặp Đông Sơn đưa hình cụ
(chưa có tên) về Hà Nội trên
một chuyến xe đò đông như nêm
cối (hình dưới). Các bạn có
nhìn thấy cụ ngồi trên mui xe ngay
trên đầu tài xế đó không?
Họa sĩ Đông Sơn thật hóm,
giấu kỹ chẳng cho ai biết tin gì cả!
Nhưng lòi đuôi! Tuy nhiên, rất có
thể chính ông cũng không biết là
mình đã cho cụ về thành hôm
đó, trên chiếc xe đò đó!
(Mà này, nhỡ ông vẽ mà không
biết là có cụ trốn trên mui đó
thì oan cho ông nhỉ!?)
Nhất Linh còn kể là Lý Toét
ra mắt độc giả ngay từ số Phong
Hóa 14, nhưng còn ngơ ngác vì
chưa có tên. Sau đó Đông Sơn
dính thêm cái tên Lý Toét vào
hình vẽ, thế là Phong Hóa có
trong tay một nhân vật hý họa hoàn
chỉnh. Lý Toét nom thật có duyên:
Nguyễn văn Lý Toét là người Việt Nam.
Lần đầu tiên Tứ Ly đem Lý
Toét-tên (không có hình), lên
báo Phong Hóa trong số 35, trong bài viết
“Cuộc Chợ Phiên của Phong Hóa tổ
chức”. Lúc đó, Lý Toét-hình,
không tên, chỉ dùng để trang trí
cho mục Vui Cười mà thôi:
Tới số 48, năm 1933, Phong Hóa có
tranh “Lý Toét ra tỉnh” thứ
nhất. Đó là lần đầu cụ
Lý có đủ tên+hình, cùng
cái dáng lom khom hay đặt câu hỏi
lạ lùng:
Thế rồi tới Phong Hóa số 59, bức
vẽ “Lý Toét ra tỉnh” thứ
hai, do Đông Sơn vẽ dưới đây,
(ký tên chữ nho) chiếm ngay trang bìa:
Lý Toét lẩm bẩm:
Quái! người
ta chôn ai mà đào dài vậy??
Đông Sơn Nhất Linh biết rằng nhân
vật này sẽ chinh phục độc giả
toàn quốc! Quả như vậy, Lý Toét
đã làm mưa làm gió trên
văn đàn nước ta trong suốt thập
niên 1930. Trước hết, về cá nhân
Lý Toét, tính chất tổng quát
được mọi người cùng chấp
nhận bất thành văn, là:
Lý Toét là một ông già nhà
quê, có chức phận trong làng, chức
Lý trưởng, nên được goi là
Lý, mắt bị bệnh đau-mắt-hột
từ bé, thành ra nó cứ kèm
nhèm, như viền vải tây đỏ,
ta gọi là mắt toét. Nhập hai chữ
Lý và Toét vào nhau thành tên
luôn, chứ Lý Toét không phải là
tên cúng cơm, bố mẹ đặt cho.
Lý Toét nghèo, sống ở thôn
quê, chưa từng được thấy những
thứ văn minh ngoài phố do người
Pháp mang lại. Lý biết đọc chữ
quốc ngữ, biết ít chữ nôm, chữ
nho, nhưng không hiểu tiếng Pháp, nên
có nhiều phen không thông về chữ
nghĩa, nhầm chữ nọ sang chữ kia tí
chút. Vì nghèo nên Lý Toét
tham ăn, lại nghiện rượu, nên ích
kỷ, chỉ muốn mình được phần
to, thêm nữa, không hiểu gì về
vệ sinh, ăn ở dơ bẩn, nên cả
tin, sợ hãi đủ mọi thứ. Lý
Toét rât mê tín, thờ đủ
mọi loại thần thánh, từ con cóc
sành trên bể nước ngoài vườn
hoa, đến con hổ sống trong chuồng Vườn
Bách Thú…
Vợ con ở quê rất lếch thếch. Lý
Toét có một cô con gái lớn tên
là Ba Vành, cô này xưa bỏ nhà
ra đi, rồi lấy tây. Thỉnh thoảng
cụ Lý có xuống vùng mỏ thăm
con gái, báo Xuân Phong Hóa, số 85
tường thuật thế. Cô có con, thỉnh
thoảng con bị sài đẹn cũng mang
vào bệnh viện chữa, làm cụ Lý
đi tìm thăm thật khốn khổ. Phong
Hóa có tranh chân dung của cô, cô
mặc áo tân thời, nom cũng đẹp
ra phết (khi trước còn ở dưới
quê thì vẫn vận áo tứ thân).
Nhân vật ảo Lý Toét với đầy
đủ tính cách như vậy, được
họa sĩ Đông Sơn sáng tác ra.
Nhưng cha đẻ của Lý Toét đã
rất hào phóng không giữ tác
phẩm cho riêng mình, mà rủ tất
cả mọi người cùng tham dự vẽ
Lý Toét! Do đó, cùng với Đông
Sơn Nhất Linh, các họa sĩ của
Phong Hóa nhẩy vào vẽ Lý Toét
với đầy hứng thú trong các tranh
vui của báo Phong Hóa. Thế là: Cuộc
Vui “Vẽ Lý Toét” bắt đầu!
Mỗi họa sĩ anh tài của Phong Hóa
vẽ ra một Lý Toét dung mạo khác
hẳn nhau, nhưng cùng tính cách, vẫn
nhận ra được. Độc giả có
thể ngắm các Lý Toét khác
nhau trong hình trên của các họa sĩ
Đông Sơn, Nhất Sách, Tô Tử
tức Ái Mỹ Tô Ngọc Vân, Lemur tức
Nguyễn Cát Tường, Bloc tức Trần
Bình Lộc, Ngym tức Ngạc Mai tức Trần
Quang Trân, Trần An….
Nhân vật Lý Toét với rất
nhiều tranh chân dung đó, đã nổi
lên vững vàng thân ái như một
vì sao mới mọc trong lòng độc
giả báo Phong Hóa. Sau này có thêm
danh họa Nguyễn Gia Trí (lúc đó
mới ra trường) tức Rigt, tức Gtri, cùng
nhiều người khác, kể cả Lê
Ta Thế Lữ cùng vẽ chân dung Lý
Toét (vẽ chữ số thành hình cụ
Lý).
Nhưng ngắm tranh Lý Toét lâu, ta thấy
cụ có vẻ hơi … cô độc,
thiếu bạn. Và việc phải đến,
đã đến: Xã Xệ xuất hiện.
Nhất Linh gọi đó là do tự nhiên
phải thế. Xã Xệ là một nhân
vật bằng vai phải lứa với Lý
Toét. Xã Xệ béo ịt, thấp lè
tè, đầu trọc lông lốc, còn
độc một sơi tóc quăn xoắn ốc
trên đỉnh. Hình ảnh Xã Xệ
hoàn toàn đối chọi với Lý
Toét gầy đét và cao lênh khênh.
Xã ra đời để đấu láo
với Lý, cãi chầy cãi cối với
Lý, chung buồn chung vui với Lý… Ngớ
ngẩn, lẩn thẩn sống cuộc đời
mới của dân nô lệ mất nước,
dưới sự bảo hộ của mẫu quốc
Phờ Lăng Xa cùng Lý.
Cha
đẻ của Xã Xệ là họa sĩ
Bút Sơn, từ Saigon gửi tranh vẽ ra Hà
Nội. Tôi nghĩ vị này là một
độc giả yêu quý Phong Hóa, nên
tạo ra nhân vật Xã Xệ đối
kháng với Lý Toét. Ông lấy
hiệu Bút Sơn để nhái Đông
Sơn. Nhưng Nhất Linh đến tận khi
mất, vẫn chưa biết tên thật của
Bút Sơn. Trên
tờ di cảo “Đời làm báo”
ghi tất cả tên và bút hiệu các
cộng sự viên, trong cũng như ngoài
Tự Lực Văn Đoàn, Nhất Linh có
hàng chữ sau:
Bút
Sơn ở Saigon (Người đẻ ra Xã
Xệ), tên thật chưa biết. Xin ông
Bút Sơn (nếu ông còn sống) hoặc
các bạn, cho biết tên thật.
Hiện
nay chúng tôi được biết tên
thật họa sĩ Bút Sơn là Lê
Minh Đức. “Theo nhà báo nhà thơ
trào phúng Tú Kềnh
viết trên Báo Bình
Minh Xuân Mậu Thân 1968 xuất
bản ở Saigon thì: Vào năm 1936 báo
Phong Hóa, nhóm Tự Lực Văn Ðoàn,
ở Hà Nội, có tổ chức cuộc
thi vẽ tranh hài hước,
họa sĩ chuyên vẽ tranh hài hước
Bút Sơn Lê Minh Ðức ở Saigòn
vẽ một bức tranh gửi ra Bắc dự
thi” (1).
Thật ra, lần đầu tiên Xã Xệ
xuất hiện trong tranh Bút Sơn là ngày
16 tháng 3 năm 1934, trên báo Phong Hóa
số 89. Xã Xệ đã được
đón tiếp thật nồng hậu. Xã
cùng Lý lên ngay trang bìa của báo.
Dưới đây là bức tranh trên
Phong Hóa, Xã Xệ ra mắt toàn dân
An Nam, cõi Đông Pháp, với lối
lý luận hạng nhất:
Lý
Toét: Thế này là nhất cử lưỡng
tiện.
Cân một lần hai đứa rồi chia hai ra thì cũng được chứ lị!
Cân một lần hai đứa rồi chia hai ra thì cũng được chứ lị!
Vậy là báo Phong Hóa đã tạo
dựng được cặp đôi hý
họa Lý Toét, Xã Xệ, mang rất
nhiều “đặc tính dân tộc”,
đi vào lịch sử văn học Việt
Nam:
Tranh Lý Toét Xã Xệ không của
riêng ai, thật là thú vị. Mỗi
bức tranh có khi là một tấm, có
khi là một loạt nhiều tấm như
phim hoạt họa, với lời chú giải
ngắn gọn hoặc vài câu thoại,
chính là một câu chuyện nhỏ,
nhiều khi rất thâm trầm, nhiều khi mộc
mạc…. Ai có một vài ý nghĩ
chủ đạo là có thể vẽ ra
một tranh hay, nếu không biết vẽ thì
viết thành truyện cười Lý Toét
cũng không kém phần dí dỏm.
Trong khi đó, nhờ những cuộc thi tranh
khôi hài của Phong Hóa, nhiều họa
sĩ bên ngoài tòa soạn đã
tới vẽ cho Phong Hóa như NG9, HKB, DLAN, Trần
An, 2TTG, Mạnh Quỳnh…. và rất nhiều
người không chuyên cũng vẽ. Thêm
nữa, các họa sĩ còn mang hình
ảnh Lý Toét Xã Xệ phổ biến,
nhân rộng ra khắp các báo thời
bấy giờ, từ ngoài Bắc tới trong
Trung, trong Nam. Họa sĩ thích vẽ, người
thường thích kể chuyện, báo nào
có Lý Xã thì có nhiều người
đọc. Đến nỗi cặp đôi này
đã trở thành những nhân vật
để quảng cáo! Có những bài
quảng cáo thuốc, quảng cáo rượu
của Lý Toét … đăng ngay trên
Phong Hóa, Ngày Nay rất nhiều lần.
Để cạnh tranh, báo Thanh Niên số
#2, ra ngày 27-1-34 cho ra đời “Xã
Dù”một anh em họ hàng với Lý
Toét. Nhưng tiếng tăm của Xã Dù
quá lu mờ, nay không ai còn biết, nhớ
đến (bài Cuộc Điểm Báo,
Phong Hóa số 84).
Như vậy là Đông Sơn Nhất Linh
đã dựng ra được một phong
trào có vô số họa sĩ trong,
ngoài tòa báo, cùng độc giả
“dấn thân”, đua nhau sáng tác
ra vô số tranh Lý Toét Xã Xệ
kể chuyện vui đùa!
Còn gì thú vị hơn!
Từ đó, Lý Toét Xã Xệ
xuất hiện đều đặn trên báo
Phong Hóa và Ngày Nay, qua những truyện
vui lý sự cù nhầy. Thỉnh thoảng
Lý Toét có bài viết riêng như
“Điều thỉnh cầu của Lý
Toét”(Phong Hóa số 68), bài thơ
Vợ Lý Toét Khuyên Chồng, trong mục
Dòng Nước Ngược, thơ trào
phúng của Tú Mỡ, rồi Lý Toét
Trả Lời, Lý Sự Cùn viết…
Lâu lâu báo có đăng Lý
Toét Phú, Xã Xệ Phú, Ván Cờ
Lý Toét, cả Văn Tế Lý Toét
(của Đỗ Đức Thu, làm trước,
phòng khi…), …
Nhưng nhiều nhất, được chú ý
nhất, vẫn là những bức tranh Lý
Toét Xã Xệ, với những cảnh
trông thấy, gặp thấy trên tỉnh.
Có nhiều kỳ báo Phong Hóa, Ngày
Nay có cả năm, bảy tranh Lý Xã
trên cùng một số báo. Tranh nào
cũng kể những chuyện ngây ngô,
những suy nghĩ, suy luận chéo cẳng
ngỗng, những hiểu lầm về ngôn ngữ
tây ta tầu… Những câu chuyện vui
vu vơ, vô tội này, ngày một lan
rộng, ngày một thu hút. Những tính
tình xấu xí, gàn bướng, cù
nhầy, đáng cười… của người
đời được diễn tả, phô
bầy dưới hình thức khôi hài
rất duyên, rất khéo… Trong đó,
Lý, Xã rất “nghệ”, với
những phản ứng không giống ai, diễn
tả được biết bao khía cạnh
khác nhau của cuộc sống…. Quý
vị độc giả đừng tưởng
hai cụ nhà quê này luôn luôn
khù khờ, trái lại, có khi rất
láu đấy! Và trong nhiều tranh các
cụ lý luận hay đáo để! mời
các bạn xem tranh Lý toét trả lời
quan tòa tây:
Khi Lý Toét phải ra tòa trả lời
tội gửi thư với tem đã đóng
dấu. Cụ Lý trả lời: “Lần
nào nhận thư của con gái, là cô
Ba Vành, gửi về cũng thấy tem đã
đóng dấu”.
Đúng quá chứ!
Cặp bài trùng Lý Xã của Phong
Hóa Ngày Nay dần dần trở nên vô
cùng nổi tiếng, được sự ủng
hộ triệt để của quốc dân, từ
trẻ con tới người lớn. Người
coi tranh, mê tranh mỗi ngày một nhiều,
tạo ra một hiện tượng xã hội
chưa từng có. Năm 1933, Georges Mignon, trong
Nụ Cười Tân Á, khen ngợi Lý
Toét của Phong Hóa (2). Và năm 2007,
tại Mỹ có bài nghiên cứu của
George Dutton: Lý Toét in the City (3),.. Còn ở
Việt Nam thì tới ngày nay vẫn có
lai rai bài viết, khảo cứu, kịch,
chèo… về Lý Toét.
Ròng rã từ 1932 tới cuối năm
1940, tranh Lý Toét là những cú đâm
xầm vào đời sống văn minh mới,
do “mẫu quốc” mang tới, của hai
cụ nhà quê cổ hủ “đẫm
đặc dân tộc tính”… Đó
cũng là lúc dân ta đang gặp phải
cái “chạm trán tóe lửa”
của hai nền văn hóa Đông Tây.
Như bà văn sĩ Pearl Buck (giải thưởng
Nobel về văn chương 1938) trong truyện
ngắn ‘Bà Mẹ Già”, Huyền
Hà dịch, Ngày Nay số 200, 1940, kể
chuyện bên Tầu: Cô con dâu đi du
học về, trong bữa cơm đại gia đình,
đã: “hét inh lên vì sợ,
khi thấy bà cụ mẹ chồng đưa
đôi đũa đã liếm nghiêm
chỉnh thật sạch trước, chọc vào
đĩa thức ăn chung của cả nhà”.
Đồng
thời trong những bức tranh nhỏ Lý Xã,
các ý tưởng được đào
sâu dần, nói lên được nhiều
điều muốn nói. Người đọc
ngày một thấm thía về thân phận
người dân nhược tiểu mất
nước, khi đa số dân chúng còn
chưa được giáo dục, vô kỷ
luật, hay sợ hãi, mê tín, và
cam chịu tủi nhục dưới ách nô
lệ của Pháp. Những bức tranh hý
họa nhẹ nhàng hóm hỉnh đó
phơi bầy dần dần những thói hư
tật xấu của dân ta. Có
người cho rằng báo PH NN đã bôi
xấu người nhà quê! Không! ta phải
hiểu rằng nếu dân ta còn nghèo
đói, vô học, sống khổ sở
như thế, chịu bao nhiêu bóc lột
đè nén như thế, thì lẽ dĩ
nhiên hủ lậu mê tín phải sinh ra
tham lam, ích kỷ, …Nhưng tới đó
thì chúng ta phải tự hỏi: “Phải
làm gì đây?”
Đó là chủ ý của Tự Lực
Văn Đoàn: dùng văn chương, báo
chí để vận động cải tạo
xã hội.
Trong bài Trả lời Tân Xã Hội,
Hoàng Đạo viết trên Ngày Nay số
30, năm 1936: “Ông sẽ phải công
nhận như chúng tôi, là dân chúng
- hầu hết là dân quê - chỉ biết
mình khổ cực, đói rét, chứ
chưa biết đường tự bênh vực
lấy mình. Vậy công việc tối quan
trọng của ta, của chúng tôi, của
ông, là làm thế nào cho họ
hiểu hết quyền lợi nghĩa vụ của
họ. Công cuộc to tát không phải
một ngày mà nên: công cuộc ấy
có thành cũng nhờ một phần lớn
ở sự tự do báo chí và tự
do kết đoàn”(4).
Thực vậy, muốn dân chúng hiểu
nghĩa vụ và quyền lợi của họ,
thì việc đầu tiên là phải
thu hút dân chúng bằng báo chí,
phải tìm cách làm dân muốn
nghe, thích nghe ta nói. Vậy trước
hết, hãy xét lại chính mình.
Hẳn trước khi thành người thành
thị, ai chẳng có gốc gác nhà
quê, không là ta, thì bố mẹ ông
bà…ta, đã từng ngớ ngẩn
“nhà quê lên tỉnh” như thế.
Mà người Việt nào cũng có
quê, như Nguyễn Trãi quê Nhị Khê,
Nguyễn Du quê Tiên Điền, Hồ Xuân
Hương quê Nghi Tàm, Cao Bá Quát
quê Phú Thị… Mồ mả các
cụ tổ tiên chúng ta đều còn
ngay ở giữa những cách đồng lúa
lầy lội đó, chứ đâu? Mà
cũng những nơi nhà quê đó,
có kho tàng vốn cổ ai cũng say mê,
đó là những tranh khôi hài, các
chuyện cười, chuyện diễu, chuyện
tiếu lâm, phóng đại, nói khoác…
Chuyện được truyền khẩu từ
ngàn xưa, từ các bác dân quê
như Ba Giai, Tú Xuất ngoài Bắc, tới
bác Ba Phi trong Nam, cùng các vị trí
thức không theo lề lối quan trường
như các Trạng, Trạng Quỳnh, Trạng
Lợn,… rất nhiều. Những chuyện
đối đáp với sứ Tầu của
các vị thiền sư từ hơn nghìn
năm trước, hay giai thoại những câu
đối đáp giữa Chiêu Hổ, Hồ
Xuân Hương ai mà chẳng mê. Và
các tranh cổ ngộ nghĩnh được
bán trong những phiên chợ quê, chợ
Tết, như Đám cưới chuột, Vinh
quy, Đánh ghen, Hứng dừa … của
làng Đông Hồ, ai mà chẳng thích?
Ta hãy ngắm lại hai tấm tranh Đông
Hồ dưới đây:
Đám cưới chuột | “ Đánh ghen” |
Trong khi đó, người đầu đàn
của Tự Lực văn đoàn Nhất
Linh Đông Sơn là một họa sĩ.
Các thành viên khác như Thế Lữ,
Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam…
cũng có thú vẽ tranh không phải
thường. (Nếu bạn đọc tinh ý
thỉnh thoảng có thể bắt gặp
trong Phong Hóa hoặc Ngày Nay những bức
vẽ rất đẹp ký tên Khái
Hưng, Tứ Ly, … Đặc biệt, Ngày
Nay số 198, xuân 1940, có in tranh vẽ của
nhiều thành viên Tự Lực Văn Đoàn:
Khái Hưng, Tú Mỡ, Thế Lữ, Hoàng
Đạo, Thạch Lam). … Với tinh thần
mỹ thuật từ bản chất của ban biên
tập như thế, hai báo Phong Hóa, Ngày
Nay sử dụng tranh ảnh trang trí rất
nhiều, luôn luôn có họa sĩ nhà
nghề làm việc minh họa. Những họa
sĩ lớp mới này được học
rất bài bản, họ học được
kỹ thuật hội họa Tây phương
tại trường Mỹ Thuật Đông
Dương tại Hà Nội (Khóa đầu
của trường tốt nghiệp năm 1930). Vì
vậy, họ sử dụng rất thông thạo
kỹ thuật hý họa kiểu tây phương,
để đùa rỡn các ông dân
biểu, các quan thượng thư …với
mục đích sửa lưng các ông,
xin các ông nhớ đến dân đến
nước, và làm cho công chúng
hiểu đời sống chính trị hơn…
Những năm sau có thêm Bang Bạnh và
Ba Ếch trong thể giới hoạt kê đó,
giúp các họa sĩ tạo được
nhiều màu sắc, nhiều khía cạnh
sâu xa hơn trước. Tuy nhiên, hai nhân
vật này không được yêu thích
bằng Lý Xã.
Cũng với lý tưởng làm thay đổi
bộ mặt xã hội, dân sinh, TLVĐ và
các họa sĩ, kiến trúc sư đã
giới thiệu cách sống mới hợp vệ
sinh, kiểu nhà mới Ánh Sáng và
nhất là việc sáng tác áo dài
kiểu mới Lemur cho phụ nữ, một thành
công vang dội, tới ngày nay “áo
dài”còn chịu nhiều ảnh hưởng.
Trong
khi đó Tứ Ly Hoàng Đạo viết
hàng loạt bài trên Phong Hóa Ngày
Nay như Trước Vành Móng Ngựa, Bùn
Lầy Nước
Đọng, Công
Dân Giáo Dục, Có Cứng Mới Đứng
Đầu Gió (ký tên Tường
Vân),… kể chuyện trong tòa án,
giải nghĩa nhiệm vụ công dân, chỉ
dẫn cho dân chúng về pháp luật,
để họ hiểu và biết cách
sống, cách cư sử cho khỏi bị ép
buộc vô lý, và cũng để tờ
báo mưu tính
những cải cách về xã hội.
(Trong
bài viết ngắn này, chúng tôi
không nói tới sự nghiệp văn
chương lừng lẫy của các văn
hào, thi bá, thành viên Tự Lực
Văn Đoàn, mà chỉ xin nhắc thêm
rằng các tiểu thuyết, thơ mới,
kịch nói…của các vị, đã
làm say mê bao thế hệ người Việt,
đã thay đổi cách viết, cách
sử dụng chữ Việt, văn chương
Việt, đã trợ giúp rất nhiều
cho công việc cải tạo xã hội về
mọi mặt).
Ngắm lại những bức tranh Lý Toét
thật lý thú, báo Phong Hóa Ngày
Nay có khá nhiều: gần 1000 tấm. Hai
khía cạnh mỹ thuật và khôi hài,
đã trộn vào nhau rất ăn ý.
Chúng là một sáng tạo tài
tình gồm cả đông lẫn tây,
cả xưa lẫn nay, trong suốt một thập
niên đã nở rộ đến không
ngờ: Phong Hóa và Ngày Nay càng
ngày càng càng đông người
đọc, đã trở thành một tờ
báo không đối thủ trong làng báo
lúc đó, mà cũng có lẽ cả
lịch sử báo chí Việt Nam xưa
nay. Có lần tờ báo Xuân Phong Hóa
đã phải xuất bản lần thứ
hai, vì nhu cầu bạn đọc. Trong tinh
thần phản đối Khổng giáo lỗi
thời hành hạ con người, đả
phá thái độ phong kiến quan lại
cũ, chế diễu lòng mê tín ngu
muội, tố cáo sưu cao thuế nặng
của tờ báo, những tấm tranh bé
nhỏ đã đụng được tới
rất nhiều vấn đề, rất nhiều
hủ tục, thói xấu, đã phá
bớt “những ý kiến cổ hủ,
nó làm mờ mịt khối óc người
ta” Riêng những vấn đề xã
hội, chính trị thực sự, chỉ được
nói đến một cách rất nhẹ
nhàng, chúng được giấu rất
kỹ để tránh kiểm duyệt rất
khắt khe của thực dân Pháp….
Tuy vậy, ngày 31 tháng 5 năm 1935, Phong Hóa
đã bị Thống sứ Bắc Kỳ đình
bản ba tháng. (Tới nay, không ai biết
tại sao báo bị đóng cửa. Có
người cho là do loạt bài “Thần
thoại tân thời” Hậu Tây Du Ký
nói động đến Phạm Quỳnh,
Nguyễn Tiến Lãng cuả triều đinh
Huế… có người cho là do bài
phóng sự sắc bén về Hoàng
Trọng Phu... đều do Hoàng Đạo
viết. Tất cả chỉ là phỏng đoán,
theo cuốn Tiếng Cười của Tú Mỡ,
(Vu Gia, cuốn Hoàng Đạo, nhà báo,
nhà văn, (6)). Theo Martina Nguyễn Thục Nhi:
“Do cả hai điều trên”, trong hồ
sơ của phòng nhì Pháp: việc
đóng cửa ba tháng báo Phong Hóa
là do báo này đã chế giễu
các quan lại An Nam.
Ngày
5-6-1936, Phong Hóa số 190 đăng một
tranh Lý Toét vẽ nhái theo chuyện
“Tam anh chiến Lã Bố” của Tam
Quốc Chí, rất đẹp, không có
chữ ký họa sĩ. Ngắm nét bút
đặc biệt sống động, ta có
thể nhận ra họa sĩ vẽ tranh là Tô
Tử tức Tô Ngọc Vân, một trong
những họa sĩ chính của Phong Hóa
thời đó. Theo thông lệ, các
tranh khôi hài thường được
mang ra bàn luận trong giờ làm việc
chung của cả tòa soạn. Một bức
tranh nhiều ẩn ý sâu xa, mà không
ký tên tác giả chắc là do sự
góp ý của nhiều thành viên tòa
soạn.
Theo sách Tam Quốc Chí, vào đầu
công nguyên ba nước Ngụy, Thục,
Ngô chia nhau nước Tầu, tranh giành
quyền lực, gây chiến tranh dài cả
trăm năm. Trong một trận đánh quyết
liệt, tam anh, Lưu Bị, Quan Vũ và Trương
Phi, nước Thục, cùng nhau vây đánh
Lã Bố, nước Ngụy. Lã Bố
tuy là đại tướng nổi tiếng
vô địch, nhưng mãnh hổ nan địch
quần hồ, đã thua. Truyện này rất
phổ thông ở Việt Nam, trước đây
gần như ai cũng biết. Trong các buổi
diễn tuồng cổ, màn này thường
được trình bầy rất sôi nổi,
các diễn viên hóa trang kiểu xưa,
mặt mày tô màu xanh đỏ rực
rỡ, áo mũ tuồng lộng lẫy xênh
xang, biểu diễn múa võ cao cường,
trong tiếng chiêng trống rộn ràng, và
nhiều khi cả tiếng la hét cổ vũ
của người xem.
Bức tranh này vẽ: “ba con chó cắn
bố Lý Toét”, có con trai Lý
Toét đứng ngoài xem, dơ tay múa
chân reo hò: “A ha! Tam anh chiến nhất
Bố!”
Thật là một câu dùng điển
Tam Quốc “Tam anh chiến Lã Bố”
để ví tuyệt hay. Tuyệt hay, vì
hai câu có cấu trúc hoàn toàn
giống nhau, diễn tả hai trận đánh
hoàn toàn khác nhau. Do cách dùng
hai nghĩa của chữ “Bố”: Bố
là tên của đại tướng nước
Tầu: Lã Bố, mà “bố” cũng
là bố của đứa con đang đứng
ngoài dơ chân muá tay reo hò.
Đọc câu điển Tam Quốc, ta chỉ
cần thay chữ “Lã” bằng chữ
“nhất” là biến thành câu
ví, câu reo của con Lý Toét: Chuyện
chiến đấu hào hùng trong sử Tầu
biến thành chuyện Lý Toét la ó
chống chọi với ba con chó dữ. Nó
làm người xem tranh cảm được
ngay, và cũng đau nhói lòng ngay, vì
thấy đứa con trai reo hò vui thích
trước sự nguy khốn của bố mình. Đó là:
- Con vô cảm, vô ý thức hay còn
quá trẻ dại không biết rằng bố
đang lâm nguy bởi ba con chó dữ tấn
công? Cùng lúc, nó nhắc người
xem tranh:
Lý Toét có mặt trên Phong Hóa
từ số đầu tới nay, Lý Toét
tượng trưng cho Phong Hóa:
- Độc giả có biết rằng báo
Phong Hóa đang trong cơn khốn khó, có
cơ nguy bị Pháp đóng cửa, rút
giấy phép vĩnh viễn bất cứ lúc
nào? (như rất nhiều báo thời đó,
không được giải thích tại
sao)
Lý Toét, nhân vật thấm đẫm
đặc tính dân tộc, những xấu
tốt của vốn cổ, tượng trưng
cho đất nước lúc này:
- Quốc dân có biết rằng đất
nước mất chủ quyền, đang bốn
bề thọ địch? (‘Địch”
là thực dân Pháp, là sự ngu
tối, dốt nát của đại đa số
dân chúng, là sự chia rẽ của
các đảng phái trong nước, nguy cơ
nội chiến…)
Trong cảnh tình như thế, bố Lý
Toét làm sao sống nổi! Than ôi! Đó
cũng là tiếng kêu cứu của Phong
Hóa! Trùng hợp làm sao, đúng
lúc đó thực dân kiểm duyệt
đóng cửa báo. Báo Phong Hóa bị
chết ngay sau số 190 này (05/06/1936) !
May
thay, báo Ngày Nay hãy còn giấy
phép, (Ngày Nay là báo dự phòng
của TLVĐ, do Nguyễn Tường Cẩm, anh
ruột Nguyễn Tường Tam, một công
chức, đứng tên, NN số 1 ra ngày
30/01/1935) nên Tự Lực Văn Đoàn
còn hoạt động thêm được
mấy năm nữa. Lý Toét còn tiếp
tục sống, tiếp tục kể chuyện đời
trên báo.
Phải
đến thời Mặt Trận Bình Dân
cầm quyền ở Pháp, những lời mong
cầu tự do, bỏ kiểm duyệt, bớt
thuế… mới được viết
ra một cách công khai. Những tưởng
Mặt Trận Bình Dân thuộc
tả phái, sẽ nới lỏng chế độ
bảo hộ. Mà không! Tất cả những
lời hứa chỉ là bánh vẽ, báo
chí vẫn chịu
chế độ
cũ, bởi
vì bên Pháp vẫn còn Bộ Thuộc
Địa, thực hành chủ trương
khai thác thuộc địa, phục vụ Mẫu
Quốc. Sau này, dù trong thế
chiến thứ II, dù năm 1939 Paris đã
bị Đức Quốc Xã chiếm đóng,
chế độ Bảo Hộ ở Bắc Kỳ
vẫn rất khắt khe: Báo Ngày Nay bị
đóng cửa vĩnh viễn
năm 1940, người viết báo bị bắt
bỏ tù (Hoàng Đạo, Khái Hưng,
Nguyễn Gia Trí… bị giam, bị tra tấn
dã man…từ 1941 tới 1943, tại Vụ
Bản, Hoà Bình (5)).
Trong
bức tranh Mẫu Quốc (nước mẹ), dưới
đây, Ngày Nay số 110, 1936, nhân Uỷ
Ban điều
tra do Pháp gửi
sang việt Nam sắp
làm xong công
việc. Hy vọng của quốc
dân là:
Chắc sẽ có
kết quả tốt? Họa sĩ Rigt Nguyễn Gia Trí viết một
câu chửi đổng:
-
Ồ, trông mong… nước mẹ gì!
Thế rồi tới giữa năm 1940, báo
Ngày Nay cũng bị đóng cửa rút
giấy phép.
Sau một vài cố gắng cuả Khái
Hưng, Thạch Lam ra báo, sách... đều
chết yểu, các thành viên phân
tán, văn đoàn Tự Lực tan đàn
sẻ nghé: Người chết vì bệnh,
người bị Pháp bắt bỏ tù,
an trí, người trốn sang Tầu làm
cách mạng, người đi xa lánh nạn,
người quay sang kịch… Chỉ còn
nhà xuất bản Đời Nay sống lay
lắt, in sách bán… Tới tháng
4-1945 còn xuất bản cuốn thơ Hoa Niên
của Tế Hanh, (Tế Hanh cùng Anh Thơ được
giải thưởng thơ của TLVĐ năm
1939, năm cuối còn có phát thưởng,
trước khi báo NN đóng cửa). Tôi
không biết Hoa Niên có phải là
cuốn sách cuối của Đời Nay hay
không.
Và cuối cùng, tới tháng 5-1945 báo
Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới ra đời,
Hoàng Đạo phụ trách mục “Kiểm
diểm chính trường Việt Nam” (Hồ
Hữu Tường, Nguyễn Tường Long, nhà
chính trị, Tạp chi Văn, số 107) Báo
ra được 16 số là hết. Tới
giữa năm 1946, nhà in được mang
bán, chia tiền cho các thành viên.
Từ đó tới nay, chúng ta chưa bao
giờ thấy lại một văn đoàn,
một nhóm văn nghệ sĩ tài năng
như thế, chung sức làm được
một kho tàng văn hóa thành công
như thế nữa. Tất cả chỉ còn
là bóng con chim nhạn bay qua ngang trời…
Tôi còn nhớ khi còn rất nhỏ,
được biết hai nhân vật huyền
thoại Lý Xã qua một bài hát
do các chị dạy truyền khẩu, trước
khi đi học chữ, để có thể
đọc được tiểu thuyết của
TLVĐ (mà phải đọc lén, vì
gia đình tôi cấm con gái đọc
tiểu thuyết). Đó là bài hát
sau đây, tuy tôi thuộc nằm lòng
nhưng không biết tác giả là ai,
phải hay không phải là người của
Văn Đoàn Tự Lực:
Ông Lý Toét mà cắp cái ô
Đi ra phố gặp lúc mưa to
Có bác Xã Xệ mà muốn đi nhờ
Tay thì vời vời miệng thét bô bô;
- Này bác Lý, thủng nhĩ hay sao?
Gọi như thế mà chẳng coi sao
Giá có cút rượu thì đến chơi liền
Đi nhờ một tí mặt cứ vênh vênh!
- Này bác Xã thật rõ lôi thôi
Còn non nước còn bác với tôi,
Ô tôi năng cụp mà bất năng xòe
Năng dựa đầu hè mà bất năng che!
Đi ra phố gặp lúc mưa to
Có bác Xã Xệ mà muốn đi nhờ
Tay thì vời vời miệng thét bô bô;
- Này bác Lý, thủng nhĩ hay sao?
Gọi như thế mà chẳng coi sao
Giá có cút rượu thì đến chơi liền
Đi nhờ một tí mặt cứ vênh vênh!
- Này bác Xã thật rõ lôi thôi
Còn non nước còn bác với tôi,
Ô tôi năng cụp mà bất năng xòe
Năng dựa đầu hè mà bất năng che!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét