Thứ Bảy, 2 tháng 10, 2010

New Light on a Forgotten Past


ÁNH SÁNG MỚI
TRÊN MỘT QUÁ KHỨ LÃNG QUÊN

Nguyên tác “New Light on a Forgotten Past
của Tíến Sĩ WILHELM G SOLHEIM II
Giáo Sư Nhân Chủng Học Đại Học Hawaii
National Geographic, Vol. 139, No. 3
Tháng 3 năm 1971
Người dịch: HOÀNG-HOA-NHÂN-KIỆT

Lời người dịch: Khi chúng tôi còn lớp nhì, lớp nhất bậc tiểu học, thầy chúng tôi là một người cách mạng, người đã từng lưu lạc qua Trung-Hoa, đã kể cho chúng tôi một câu chuyện rất lý thú. Từ ngày đó cho đến nay đã gần 50 năm, không lúc nào chúng tôi quên được. Câu chuyện như sau: Khi cách mạng dân quốc của Trung-Hoa chưa thành công, lãnh tụ Tôn-Dật-Tiên qua cầu viện nước Nhật, tại đây Tôn-Dật-Tiên có gặp ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị (một chính khách Nhật cũng là một nhà mạnh thường quân của cách mạng Việt-Nam), trong câu chuyện hàn huyên, khi đề cập tới Việt-Nam, Tôn-Dật-Tiên đã bĩu môi chê dân tộc Việt-Nam, họ Tôn nói với ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị như sau:

“Dân An-Nam là một dân tộc nô lệ, trước họ nô lệ chúng tôi, nay họ nô lệ người Pháp, họ là một dân tộc có đầu óc nô lệ làm sao giúp họ độc lập được”

Ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị đã cắt lời Tôn-Dật-Tiên như sau:

“Tôi xin được phép ngắt lời ngài ở đây, ngài đã có những nhận xét không đúng về dân tộc đó(dân tộc Việt-Nam: lời người dịch), bây giờ họ thua người Pháp vì họ không có khí giới tối tân chống lại người Pháp, mai sau khi họ có khí giới tối tân họ sẽ đánh bại người Pháp (lời tiên đoán này đúng với chiến thắng Điện-Biên-Phủ sau này). Ngài nên nhớ rằng dân tộc Lạc Việt này là một chi duy nhất còn lại của Bách Việt đã chống lại sự đồng hóa của người Trung-Hoa giữ nền độc lập của tổ tiên họ trong khi các chi Việt khác như Mân Việt đã bị đồng hóa cả ngàn năm”

Khi nghe tới đây, Tôn-Dật-Tiên đỏ bừng mặt xin lỗi ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị và xin cáo lui. Tôn-Dật-Tiên xấu hổ vì Tôn-Dật-Tiên là người Quảng Đông (Mân Việt).

Trong thập niên qua ( thập niên 1960 : lời người dịch), thế giới quay sự chú ý về miền Đông Nam Á nhưng sự chú ý này chỉ dồn về cuộc chiến Việt-Nam. Những ảnh hưởng nặng nề của những biến cố quân sự đã làm lu mờ những khám phá đáng ngạc nhiên về thời cổ sử của vùng này cũng như các dân tộc sống ở đó.

Nhưng trong trường kỳ, những khám phá này, chính yếu là những khám phá mới về khảo cổ, sẽ ảnh hưởng hơn cả cuộc chiến hay kết cuộc của cuộc chiến về đường lối chúng ta (người Tây phương: ghi chú của người dịch) suy nghĩ về vùng Đông-Nam-Á, về các dân tộc sống trong vùng này, cảm nghĩ của các dân tộc bản địa về chinh họ.

Ngay cả địa vị người Tây phương và vị trí của trong cuộc tiến hóa của nền văn minh thế giới sẽ bị ảnh hưởng một cách trầm trọng. Những dấu hiệu mạnh mẽ và rõ ràng đang kết tụ cho thấy những giai đoạn đầu tiên để hướng về văn minh bắt đầu từ vùng Đông Nam Á.


Người hoàn tất tiền sử mang các đầu mối như bình gốm cổ 5000 năm từ NON NOK THA trong miền đông bắc Thái-Lan và các nhà truy tầm khảo cổ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi, “Nơi nào nền văn minh bắt đầu?”. Tiến sĩ SOLHEIM II (hình trên) được những nhà tiền sử học đặt danh hiệu là ÔNG ĐÔNG NAM Á đặt giả thuyết cách mạng trên những trang giấy này cho rằng những người ĐÔNG NAM Á có thể là những người đầu tiên làm ra đồ gốm, mài và đánh bóng những dụng cụ bằng đá, trồng lúa, và đúc đồng.


NƠI NÀO LÀ NƠI ĐẦU TIÊN LOÀI NGƯỜI TRỒNG TRỌT CÂY TRÁI VÀ
ĐÚC ĐỒNG?

Các sử gia Âu Mỹ thường lập luận rằng nền văn minh nhân loại đã bắt rễ từ vùng bán nguyệt Cận Đông hay trên những vùng đồi phụ cận của miền này. Ở đó, từ lâu chúng ta tin rằng con người nguyên thủy đã phát triển canh nông và học cách làm đồ gốm, đồ đồng. Khoa khảo cổ đã hổ trợ niềm tin này một phần vì các nhà khảo cổ đã đào xới, khai quật nhiều nhất vùng bán nguyệt Cận Đông mầu mỡ này. Tuy nhiên, những khám phá bây giờ ở trong miền Đông Nam Á đang buộc chúng ta phải khảo nghiệm lại các truyền thống này. Các vật liệu được khai quật và phân tích trong năm năm qua đã cho thấy rằng con người sống ở vùng Đông Nam Á đã trồng cây, làm đồ gốm, đúc đồng trước tiên trên thế giới, trước tất cả cá vùng khác trên trái đất này.

Những chứng cớ đến từ những địa điểm khảo cổ trong vùng đông bắc và tây bắc Thái-Lan, với những tiếp trợ từ những khai quật ở Đài-Loan, Bắc và Nam Việt-Nam, các khu vực khác ở Thái-Lan, Mã-Lai, Philippine, và ngay cả từ miền Bắc Australia cho thấy các vật liệu được khám phá và khảo nghiệm bằng carbon 14 cho thấy rằng những di tích của những dân tộc mà tổ tiên họ đã trồng cây, chế tạo đồ đá, đồ gốm hàng ngàn năm trước các dân tộc sống ở vùng Cận Đông, Ấn-Độ, và Trung-Hoa.

Trong một địa điểm khai quật ở bắc Thái-Lan, các nhà khảo cổ đã tìm thấy đồng được đúc trong những khuôn đôi vào khoảng từ 2300 năm đến hơn 3000 năm trước tây lịch. Đây là bằng chứng cụ thể cho thấy công việc đúc đồng này đã có trước cả Trung-Hoa hay Ấn-Độ, cũng như trước cả các đồ đồng đúc ở miền Cận Đông mãi tới bây các chuyên gia vẫn còn tin là nơi luyện kim đồng đầu tiên trên thế giới.

Có người nêu ra lý do hỏi rằng nếu sự việc này quá quan trọng như vậy tại sao vai trò của vùng Đông Nam Á cùng các dân tộc trong vùng trong thời tiền sử không được biết đến cho tới bây giờ. Có vài lời giải thích về việc này nhưng lý do chính rất đơn giàn là rất ít cuộc khảo cứu về khảo cổ được hoàn tất trước năm 1950. Ngay cả bây giờ công việc khảo cổ mới tiến hành một cách sơ lược. Các viên chức thuộc địa đã không đặt ưu tịên cao về các khảo cứu của thời tiền sử ở vùng này chỉ có một số ít người nghiên cứu về công việc khảo cổ được huấn luyện về nghề nghiệp cẩn thận. Không một phúc trình toàn bộ nào về các địa điểm khai quật được chấp nhận theo tiêu chuẩn hiện đại được xuất bản trước năm 1950. Thứ nữa là những điều các nhà khảo cổ tìm ra đã được diễn dịch trên một giả thuyết là sự phát triển văn hóa được đông tiến và nam tiến.

Các nhà chuyên môn này đã nêu ra lý thuyết cho rằng nền văn minh nhân loại bắt đầu trong vùng Cận Đông lan ra vùng Nhĩ Hà, Ai-Cập và sau đó là Hy-Lạp và La-Mã. Nền văn minh cũng di chuyển đông tiến tới Ấn-Độ và Trung-Hoa. Đông Nam Á thì quá xa điểm khởi thủy do đó chỉ tiếp nhận nền văn minh sau các vùng trên.

Các người Âu châu tìm ra các nền văn hóa cao ở Ấn-Độ và Trung-Hoa, do đó khi họ tìm ra các kiến trúc và lối sống của các quốc gia trên và miền Đông Nam Á giống nhau, người Âu châu cho rằng Ấn-Độ và Trung-Hoa ảnh hưởng vùng này. Ngay cả tên họ đặt cho vùng là Ấn –Trung cũng phản ảnh lại thái độ của họ.

NHỮNG DI DÂN VÀ “NHỮNG ĐỢT SÓNG VĂN HÓA”

Trong mụcđích tìm về thời tiền sử ở Đông Nam Á, chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) cho rằng văn minh Đông Nam Á phải được trải rộng ra tới những khu vực có các nền văn hóa liên hệ. Từ ngữ tiền sử Đông Nam Á mà tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) sử dụng chứa đựng hai phần. Phần thứ nhất hay là phần đất chính Đông Nam Á được trải dài từ rặng núi Tần-Lĩnh phía bắc sông Hoàng-Hà của Trung-Hoa cho tới Singapore và từ miền Đông hải tây tiến tới Miến-Điện vào tận Asssam của Ấn-Độ. Phần khác được gọi là quần đảo Đông Nam Á đánh một vòng cung từ quần đảo Andaman ở miền nam Miến-Điện trải dài tới Đài-Loan bao gồm Indonesia và Philippine.

Nhà nhân chủng học người Áo ROBERT HEINE-GELDERN xuất bản đại cương truyền thống về thời tiền sử ở Đông Nam Á vào năm 1932. Ông ta đã đề xướng một loạt những đợt sóng văn hóa có nghĩa là những làn sóng người di cư đã đem tới Đông Nam Á những chủng tộc chính đã được tìm thấy ngày nay ở khu vực này.

Ông ROBERT HEINE-GELDERN cũng cho rằng đợt di dân quan trọng nhất là đợt di dân của những người đã chế ra một dụng cụ hình chữ nhật được gọi là cái rìu. Những người di dân trong đợt sóng này đã đến từ miền bắc Trung-Hoa di cư xuống Đông Nam Á và lan xuống miền Sumatra, Java, Borneo, Philppines, Đài-Loan và Nhật-Bản.

Sau đó ông ROBERT HEINE-GELDERN đã giải quyết về sự du nhập đồ đồng vào Đông Nam Á như sau: ông ta giả thuyết cho rằng đồ đồng nguyên thủy ở Đông Nam Á được du nhập từ Đông Âu khoảng 1000 năm trước tây lịch do những di dân. Ông ROBERT HEINE-GELDERN tin rằng những di dân trong đợt di dân này di chuyển vào phía đông và phía nam vào Trung-Hoa vào thời Tây Châu (khoảng từ năm 1122 – năm 771 trước tây lịch). Những di dân này đã đem đi với họ không những chỉ có các kiến thức về chế tạo đồng, họ còn đem tới nghệ thuật kỷ hà mới với các đường thẳng, đường xoắn ốc, tam giác cùng hình người và thú vật.

Nghệ thuật này đã được ứng dụng trong toàn vùng Đông Nam Á được cả hai ông ROBERT HEINE-GELDERN và BERNHARD KARLGREN (môt học giả Thuỵ-Điển) gọi là nền văn hóa ĐÔNG SƠN theo tên Đông Sơn, một địa điểm ở miền bắc Việt-Nam, phía nam Hà-Nội, nơi mà các trống đồng lớn cùng các cổ vật khác được tìm thấy. Hai ông HEINE-GELDERN và KARKGREN đều cho rằng người dân Đông Sơn đã đem đồng và nghệ thuật trạm trổ kỷ hà vào Đông Nam Á.

Hình trống đồng ĐÔNG-SƠN được chế tạo từ thế kỷ thứ ba hay sớm hơn tại ĐÔNG-SƠN, phía nam HÀ-NỘI, bắc VIỆT-NAM.

Phần lớn thời tiền sử được tái tạo theo truyền thống đó nhưng có một đôi điều đã không phù hợp với truyền thống này. Thí dụ như một số nhà thực vật học nghiên cứu về nguồn gốc thuần hóa của cây cỏ đã đề xướng là Đông Nam Á là một trung tâm thuần hóa cây cỏ rất sớm.

Năm 1952, nhà địa chất học CARL SAWER đã đi một bước xa hơn. Ông CARL SAWER đã đưa ra giả thuyết là cây cỏ đầu tiên trên thế giới được thuần hóa ở Đông Nam Á. Ông SAWER đã phỏng đoán rằng cây cỏ được thuần hóa được mang tới do những người sống trong nền văn hóa trước thời kỳ văn hóa Đông Sơn xa. Những người dân sống trong trong một nền văn hóa nguyên thủy được biết đến như là nền văn hóa HÒA-BÌNH nhưng các nhà khảo cổ thời đó đã không chấp nhận lý thuyết này của ông CARL SAWER.

NHỮNG ĐẬP NƯỚC ĐÃ THÊM VÀO MỘT YẾU TỐ KHẨN CẤP

Khoảng những năm 1920, bà MADELEINE COLANI, một nhà thực học Pháp sau trở thành nhà nghiên cứu Cổ Sinh Vật Học và cuối cùng trở thành nhà Khảo Cổ là người đầu tiên đặt ra sự hiện hữu của nền văn hóa HÒA BÌNH. Bà COLANI căn cứ trên những khai quật của những hầm và động đá ở những địa điểm trong miền Bắc Việt-Nam, những hầm và hang đá này được tìm thấy trước tiên ở ngôi làng trong tỉnh Hòa-Bình.

Những cổ vật tiêu biểu trong những địa điểm này bao gồm những dụng cụ bằng đá hình bầu dục, hình tròn, hay hình tam giác được mài dũa một bên, một bên để nguyên. Những đá mài xinh sắn được tìm thấy ở phần lớn các địa điểm khai quật cùng với nhiều vụn đá. Những tầng trên của của các hầm và động đá thường để giữ các đồ gốm và một ít dụng cụ bằng đá khác với đầu để sử dụng thì sắc bén. Xương thú vât và một số lượng lớn vỏ sò cũng hiện diện.

Các nhà khảo cổ nghĩ rằng đồ gốm cùng với các dụng cụ của nền văn hóa HÒA-BÌNH xuất hiện ngẫu nhiên và do những người có một nền văn hóa cao hơn sống gần đó chế tạo có thể là những nông dân đã di cư từ miền bắc xuống. Các nhà khảo cổ cũng nghĩ rằng những dụng cụ đá mài được học từ người bên ngoài. Nhưng không có địa điểm nào của những nông dân phía bắc được tìm thấy.

Năm 1963, tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) đã tổ chức một đoàn liên hợp khảo cổ cấp thời phối hợp giữa BỘ NGHỆ THUẬT THÁI-LAN và ĐẠI HỌC HAWAII để làm công việc cứu vớt khảo cổ ở những khu vực sẽ bị lụt do công việc xây dựng những đập nước mới trên sông CỬU LONG và những chi nhánh của sông này. Chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) phải bắt đầu làm việc trong miền bắc THÁI-LAN, nơi những đập nước đầu tiên được xây dựng.

Không có một hệ thống khảo cứu về thời tiền sử ở vùng này được HÒAn tất. Tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) cảm thấy cần khẩn cấp bắt đầu hàng loạt khai quật trước khi vùng này chìm ngập dưới nước.

NHỮNG NGẠC NHIÊN ĐẾN TỪ MỘT GÒ ĐẤT KHÔNG ĐÁNG QUAN TÂM

Trong mùa khảo cứu dã ngoại đầu tiên chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) đã xác định vị trí của hơn hai mươi địa điểm, trong mùa thứ hai đoàn đã khai quật một vài nơi của các địa điểm này trong khi thử nghiệm các nơi khác; trong năm 1965-1966, chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) đã làm một cuộc khai quật chính ở NON NOK THA. Trong lúc thử nghiệm với đồng vị phóng xạ carbon-14 để xác định thời gian của các cổ vật hiện ra vài vấn đề, chúng đã đề xướng một cách mạnh mẽ là có dấu hiệu của sự liên tục về đời sống của con người (với vài sự ngắt quãng) đi ngược về thời gian trước năm 3500 trước tây lịch.

NON NOK THA là một gò đất rộng khoảng sáu mẫu Anh (acre) nhô lên các ruộng lúa bao quanh khoảng sáu bộ Anh (foot). Trong khi làm việc tại đó, chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) sống ở làng BAN NA DI, cách gò đất khoảng một hai trăm mét.

Chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) làm việc bốn tháng tại nơi khai quật đầu tiên. Ông HAMILTON PARKER thuộc đại học OTAGO, nước TÂN-TÂY-LAN chịu trách nhiệm trong năm đầu tiên. DONN BAYARD, một sinh viên học trò của tiến sĩ SOLHEIM II, trở lại NON NOK THA trong năm 1968 để làm cuộc khai quật thứ hai cho luận án tiến sĩ của ông ta. Từ đó hai đại học OTAGO và HAWAII đã liên tục yểm trợ cho công việc của đoàn liên hợp khảo cổ như một chương tình liên kết phối hợp với bộ NGHỆ THUẬT THÁI-LAN.

Những kết quả của các cuộc khai quật cho tới bây giờ (năm 1971: lời người dịch) đi vào năm thứ 7 đã làm kinh ngạc nhưng mới chỉ mở ra một cách chậm chạp khi những phân tích của chúng tôi tìm ra từ phòng thí nghiệm ở HONOLULU. Ngay khi chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) bắt đầu nhận kết quả đồng vị phóng xạ CARBON-14 định vị thời gian, chúng tôi bắt đầu nhận thức rằng địa điểm này là một địa điểm thực sự mở ra một cuộc cách mạng của ngành khảo cổ.

Trong một mảnh gốm vỡ vụn nhỏ hơn 1 inch vuông, chúng tôi đã tìm ra dấu vết của vỏ trấu. Từ thử nghiệm phóng xạ đồng vị CARBON ở một mức trên mảnh gốm này, chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIMM II) được biết rằng hạt gạo này có niên đại ít nhất là 3500 năm trước tây lịch. Điều này chứng tỏ rằng lúa gạo đã được trồng tại đây trước cả Trung-Hoa hay Ấn-Độ, nơi một vài nhà khảo cổ cho rằng là nơi thuần hóa lúa gạo đầu tiên, cả ngàn năm.

Từ CARBON phóng xạ đồng vị của than liên hệ, chúng tôi (Tiến sĩ SOLHEIMM II) biết rằng những rìu đồng đúc trong những khuôn đôi bằng sa thạch được làm ra ở NON NOK THA sớm hơn 2300 năm trước tây lịch có thể là 3000 năm trước tây lịch. Đây là hơn 500 năm trước kỹ thuật đúc đồng ở Ấn-Độ, và 1000 năm trước khi đồng được biết đến ở Trung-Hoa. Địa điểm này cũng chứng tỏ là lâu đời hơn những địa điểm ở Cận Đông vẫn được coi là nơi chế tác đồng đầu tiên.

Khuôn chữ nhật mà chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) tìm thấy ở NON NOK THA đều theo cặp đôi, chỉ rõ ràng chúng được đặt chung với nhau ở nơi chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) tìm ra chứ không phải bị thất lạc hay vứt bỏ. Quan tâm toàn thể khu vực và những lò nấu kim loại bị hư hỏng và những cục đồng nhỏ vương vãi chúng tôi (đoàn tiến sĩ SOLHEIM II) không còn nghi ngờ gì nữa chúng tôi đã khai quật một khu vực đúc đồng, hay chính xác hơn một nhà máy làm rìu cổ.

Những phần của gia súc được chôn chung với những mộ cổ xưa ở NON NOK THA. Những phần này đã được nhận ra như gia súc tương tự như loái bò có u. Điều này chứng tỏ những gia súc đã được thuần hóa sớm ở Đông Á Châu.

CHESTER GORMAN, một sinh viên của tôi ở trường đại học HAWAII, là người xác định vị trí của NON NOK THA bằng cách tìm ra những mảnh gốm đã bị soi mòn trên gò đất. Năm 1965, anh ta trở lại Thái-Lan cho luận án tiến sĩ của anh ta. CHESTER GORMAN muốn thử nghiệm lại giả thuyết do CARL SAWER và các nhà khảo cổ khác cho rằng người dân thuộc nền văn hóa HÒA-BÌNH đã thuần hóa cây cỏ. Anh ta đã khám phá ra HẦM TINH THẦN (SPIRIT CAVE) ở xa về phía bắc biên giới Thái-Lan và Miến-Điện, tại đây CHESTER GORMAN đã tìm ra được những gì anh ta muốn tìm.

HẦM CỦA THẦN CHẾT LÀM VỮNG CHÃI CÁC NIÊN HIỆU

HẦM TINH THẦN (SPIRIT CAVE) trồi lên cao bên cạnh lớp đá vôi nhìn xuống dòng suối chẩy vào sông SALWEEN ở Miến-Điện. Hầm này được dùng như một hầm mộ do đó được mang tên là hầm mộ.

Khi khai quật sàn của hầm mộ, CHESTER GORMAN đã tìm thấy những phần còn lại của cây cỏ hóa than bao gồm hai hạt đậu Hòa-Lan, củ năng (water chestnut), hột ớt, nhũng đoạn dây bầu bí và dưa chuột tất cả những vật này kết hợp với những dụng cụ bằng đá đặc trưng của người dân có nền văn hóa HÒA –BÌNH.

Các mảnh xương của thú vật được cắt ra từng miếng nhỏ không thấy dấu vết cháy chứng tỏ rằng thịt đã được nấu chín tại đây chứ không phải nướng trên ngọn lửa, thịt được sào trong những đồ vật bằng tre xanh vẫn thấy dùng ở Đông Nam Á ngày nay.

Một loạt khảo nghiệm bằng đồng vị phóng xạ Carbon 14 cho thấy các vật liệu tìm ra ở đây có niên hiệu từ khoảng 6000 năm cho tới 9700 năm trước tây lịch. Vẫn còn những cổ vật xưa hơn nằm trong những lớp đất đào sâu hơn chưa xác định được thời gian. Vào khoảng 6600 năm trước tây lịch, các cổ vật này đã được đưa vào địa điểm này. Những cổ vật này bao gồm đồ gốm hoàn chỉnh, sắc xảo và được đánh dấu bằng những sợi dệt trong tiến trình chế tạo, cùng những dụng cụ bằng đá hình chữ nhật được đánh bóng và những lưỡi dao nhỏ. Các dụng cụ và cây cỏ được thuần hóa thuộc nền văn hóa Hòa-Bình được tiếp tục khám phá ra gần đây.

Chúng tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) quan tâm đến những khám phá tại hầm TINH THẦN (SPIRIT CAVE) ít nhất như là bước khởi đầu để bổ sung cho giả thuyết của CARL SAWER, những cuộc thám hiểm khác đang thêm những chứng cớ của một sự trải rộng và phức tạp của nền văn hóa HÒA-BÌNH. Ông U AUNG THAW, giám đốc cơ quan khảo cổ Miến-Điện đã khai quật trong năm 1969 một địa điểm đáng lưu ý thuộc nền văn hóa HÒA-BÌNH tại những hầm mộ PADAH-LIN ở phía đông Miến-Điện. Địa điểm này chứa đựng nhiều vật khác trong đó có nhiều họa phẩm. Đây là địa điểm xa nhất về hướng tây thuộc nền văn hóa HÒA-BÌNH được báo cáo.

Những cuộc khai quật ở Đài-Loan do một đoàn thám hiểm hỗn hợp của ĐẠI HỌC QUỐC GIA ĐÀI LOAN và ĐẠI HỌC YALE dưới sự hướng dẫn của giáo sư KWANG-CHIH-CHANG thuộc ĐẠI HỌC YALE đã tìm ra một nền văn hóa với những hình dây và những đồ gốm sắc bén, dụng cụ bằng đá đánh bóng, và những phiến đá mỏng được đánh bóng đã xuất hiện từ lâu khoảng 2500 năm trước tây lịch.

Hình nắp bình đựng tro người chết bằng đồng trong thế kỷ thứ hai trước tây lịch từ Vân-Nam, Trung-Hoa diễn tả dân làng trong một buổi lễ giết người tế thần.


VẤN ĐỀ KHÓ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC SẮP XẾP PHÙ HỢP VỚI NHAU

Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đã tóm tắt ý kiến về những cuộc khai quật mới cùng những niên hiệu tại đây và các nơi khác, tôi đã không chú ý tới việc nghiên cứu sự tái thiết thời tiền sử ở Đông Nam Á, trong một ngày nào đó có lẽ hai việc này cũng quan trọng ngang nhau. Trong một số bài viết được xuất bản, tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đã bắt đầu về việc này. Hầu hết những ý kiến đó, tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề xướng ra như là giả thuyết hay phỏng đoán. Những giả thuyết hoặc phỏng đoán này cần được khảo cứu nhiều thêm để chấp nhận hay bác bỏ.

Trong số những giả thuyết này:

  • Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đồng ý với SAWER là những người dân thuộc nền văn hóa HÒA-BÌNH là những người đầu tiên trên thế giới đã thuần hóa cây cỏ ở một nơi nào đó trong vùng Đông Nam Á. Việc này cũng chẳng làm tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) ngạc nhiên nếu sự thuần hóa này bắt đầu sớm nhất khoảng 15000 năm trước tây lịch.

    Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị những dụng cụ bằng đá được tìm thấy ở miền bắc Australia được đo bằng phóng xạ đồng vị Carbon 14 có niên hiệu khoảng 20000 năm trước tây lịch thuộc về nền văn hóa HÒA-BÌNH nguyên thủy.

  • Trong khi những niên hiệu sớm nhất của những đồ gốm này được biết tới ở Nhật vào khoảng 10000 năm trước tây lịch, tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) kỳ vọng rằng khi nhiều địa điểm với những đồ gốm chạm trổ hình dây được xác định niên hiệu, chúng ta sẽ tìm ra những người này đã làm ra những loại đồ gốm chắc chắn trước 10000 năm trước tây lịch, và có thể họ đã phát minh ra cách làm đồ gốm.

  • Truyền thống tái tạo thời tiền sử cua Đông Nam Á cho rằng các di dân từ miền Bắc đem những phát triển quan trọng về kỹ thuật đến vùng Đông Nam Á. Thay vào đó tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị nền văn hóa của kỷ nguyên thứ nhất tân thạch khí (sau thời đồ đá) ở bắc Trung-Hoa được biết đến như là nền văn hóa Yangshao thoát thai từ một nền văn hóa phụ thuộc văn hóa HÒA-BÌNH di chuyển lên phía bắc từ phía bắc của Đông Nam Á vào khoảng thiên niên kỷ thứ 6 hoặc thứ 7 trước tây lịch.

  • Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị nền văn hóa sau đó được gọi là văn hóa Lungshan. Đã được phát triển từ nam Trung-Hoa và di chuyển về hướng bắc thay vì đã được giả thuyết là nền văn hóa này lớn mạnh từ văn hóa Yangshao và bùng nổ về hướng đông và đông nam. Cả hai nền văn hóa này đều thóat thai từ văn hóa HÒA-BÌNH.

  • Thuyền làm bằng thân cây có thể được sử dụng trên sông ngòi Đông Nam Á trước Thiên niên kỷ thứ năm. Có thể không lâu trước 4000 trước tây lịch cây cân bằng được phát minh ở Đông Nam Á thêm vào sự cân bằng cần thiết để đi biển. Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) tin rằng phong trào đi khỏi khu vực bằng thuyền bắt đầu khoảng 4000 năm trước tây lịch dẫn đến các cuộc du hành ngẫu nhiên từ Đông Nam Á tới Đài-Loan và Nhật-Bản, đem tới Nhật kỹ thuật trồng khoai môn và các hoa mầu khác.

  • Vào một khoảng thời gian nào đó trong thiên niên kỷ thứ ba trước tây lịch, những cư dân Đông Nam Á, bấy giờ là những chuyên viên sử dụng thuyền bè, đã đi tới những đảo ở Indonesia và Philippines. Họ đã đem cả một nghệ thuật kỷ hà gồm những đường soắn ốc, hình tam giác, hình chữ nhật trong những kiểu mẫu được dùng trạm trổ trong đồ gốm, đồ gỗ, hình xâm, quần áo bằng vỏ cây, và sau đó là vải dệt. Những mỹ thuật kỷ hà này được tìm thấy ở trên các đồ đồng ĐÔNG-SƠN và đã được giả thuyết là tới từ Đông Âu.

  • Người dân Đông Nam Á cũng di chuyển về phía tây tới Madagascar khoảng 2000 năm về trước. Điều này xuất hiện như là một cống hiến quan trọng của họ trong sự thuần hóa cây cỏ cho nền kinh tế Đông Phi Châu.

  • Cũng khoảng thời gian này, sự liên lạc giữa Việt-Nam và Địa Trung Hải bắt đầu có thể bằng đường biển như là kết quả của phát triên giao thương. Một vài đồ đồng khác thường được tìm thấy ở ĐÔNG SƠN đã được giả thuyết có nguồn gốc Địa Trung Hải.

QUÁ KHỨ CÓ THỂ GIÚP THẮP SÁNG HIỆN TẠI

Cách tái kiến trúc thời tiền sử Đông Nam Á được tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) trình bày ở đây căn cứ trên dữ kiện từ một ít địa điểm khai quật và một sự giải thích lại dữ kiện cũ. Nhiều sự diễn giải khác có thể có được. Nhiều khai quật phong phú, nhiều niên hiệu phong phú ở các địa điểm khai quật đều cần thiết cho thấy nếu đây là cái sườn của công việc tổng quát căn bản này cho được gần hơn với sự tái kiến trúc của HEINE-GELDERN thời tiền sử ở Đông Nam Á. Burma và Assam tuyệt nhiên không được biết đến trong tiền sử, tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) nghi ngờ chúng là một phần quan trọng của thời tiền sử Đông Nam Á.

Hầu hết những điều cần thiết là nhiều chi tiết hơn về những khu vực nhỏ có những đặc tính riêng biệt. Tăng cường sự khảo sát trong những khu vực nhỏ bằng cách hợp tác việc phát triển văn hóa địa phương và sự chấp nhận tiến hóa môi sinh tìm xem cách sống của người dân phù hợp với sườn của thời tiền sử. Sau cùng, đây là người dân chúng ta (Tiến Sĩ SOLHEIM II và đoàn thám hiểm cua ông) muốn tìm hiểu, và điều thăm dò này có thể giúp chúng ta vài sự thông suốt trong sự phản ứng giữa những người dân Đông Nam Á với nhau và với những đổi thay của họ trong vùng Đông Nam Á.

HOÀNG-HOA-NHÂN-KIỆT

Dịch xong lần đầu năm 1995, sửa chữa và hoàn tất ngày 24 tháng 4 năm 2002

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét