Trong
cuộc chiến tranh bảo vệ tự do dân chủ của Việt Nam Cộng Hoà, cái nhức nhối nhất
là chỗ nào cũng có bọn VC nằm vùng, chúng tràn lan trong các tổ chức chính quyền,
các cơ quan truyền thông, văn nghệ, tôn giáo, sinh viên học sinh…
Trong các tổ chức chính quyền, từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng Tham
Mưu, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, Tổng Nha Cảnh Sát, Quốc Hội, và ngay cả
trong Dinh Độc Lập cũng có VC nằm vùng. Bọn nầy ẩn nấp dưới hàng trăm hàng ngàn
bộ mặt, muôn hình vạn trạng, đánh phá miền Nam, từ công khai hợp pháp, đến bí
mật dưới muôn ngàn hình thức. Độc hại nhất là bọn ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng
Sản.
Ngày nay, trong cuộc đấu tranh cho một nước Việt Nam tự do,
dân chủ của các cộng đồng tỵ nạn Cộng Sản hải ngoại, cũng không tránh khỏi bọn
nầy. Ở thế kỷ 21, kỹ thuật đánh phá tinh vi hơn, nhất là lợi dụng các thứ tự
do, công khai và hợp pháp để đánh phá.
Phạm vi hoạt động của Việt Cộng
Thời nào cũng vậy, bài bản của phạm vi hoạt động cũng giống
nhau. Đó ví như một vòng tròn có ba phần:
Phần trung tâm, là do cán bộ đảng viên thực hiện.
Phần thứ hai của vòng tròn, nối tiếp bên ngoài trung tâm, là
những tổ chức được thành lập, do liên minh, liên kết, trong đó cán bộ đảng viên
nắm phần lãnh đạo, chỉ huy, và đa số các thành phần quần chúng tham gia là
không Cộng Sản. Đó là những “Mặt Trận”, như Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Dân
Tộc Giải Phóng Miền Nam, Mặt Trận Tổ Quốc…
Phần ngoài cùng của vòng tròn, là những tổ chức quần chúng
không cộng sản, nhưng thân cộng, bị VC len lỏi bên trong, giật dây, tác động.
Đó là những “Phong Trào”, như:
Phong trào hoà bình (chống chiến tranh, phản chiến), Phong
trào chống tham nhũng, Phong trào Nhân dân cứu đói, Phong trào bảo vệ phụ nữ,
Phong trào bảo vệ văn hoá dân tộc, Phong trào đòi thi hành Hiệp định Paris, Lực
lượng quốc gia tiến bộ, Thành phần thứ ba…
2* Những tên Việt Cộng nằm vùng
2.1. Nhà văn nhà báo Việt Cộng nằm vùng
Cuối năm 1957, dưới thời tỉnh trưởng Nguyễn Trân, một mẻ lưới
của cảnh sát Định Tường tung ra, bắt giữ những ký giả đem về giam tại Mỷ Tho,
gồm có những người nằm vùng trong những tờ báo như sau:
Triệu Công Minh (báo Tiếng Dội), Lương Ngọc (Trời Nam), Nam
Thanh (Lẻ Sống), Đồng Văn Nam, Phương Ngọc, Phan Ba (Buổi Sáng), Nguyễn Bảo Hoá
(Ánh Sáng), vợ Nguyễn Bảo Hoá là dược sĩ Mã Thị Chu (Tiếng Chuông), LS Nguyễn
Văn Diệp, đạo diễn Lê Dân, Mai Thế Đông (giám đốc cải lương).
Nguyễn Trân tổ chức tranh luận công khai tại rạp hát Viễn
Trường, Mỷ Tho, nếu nhận CNCS là sai và ăn năn hối cải thì được thả ra. Sau khi
được thả, toàn bộ dông tuốt vô bưng, xem như Nguyễn Trân thả cọp về rừng.
2.2. Truy lùng Việt Cộng
Sau cuộc truy lùng trong các báo nêu trên, chính quyền bắt
giam hàng loạt cán bộ nằm vùng cấp thành ủy, như GS Nguyễn Văn Chì, Lê Văn Chí,
Trần Văn Hanh, Nguyễn Trường Cữu, Cổ Tấn Lương, Bùi Đức Thịnh, bà Bình Minh, đa
số là giáo sư tư thục.
2.3. Việt Cộng nằm vùng, nhà văn Vũ Hạnh
Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Đức Dũng sinh năm 1926 tại Quảng
Nam. Cán bộ văn hoá khu ủy Sài Gòn-Gia Định, hoạt động công khai đơn tuyến ở
nội thành Sài Gòn.
Nhà văn Vũ Hạnh tại hội trường A trường Đại học An Giang đêm
17/03/2006.
Trước 1975, Vũ Hạnh bị bắt 5 lần, nhưng lần nào cũng có người
bảo lãnh cho ra. Người bảo lãnh Vũ Hạnh sau cùng, là LM Thanh Lãng, Chủ tịch
Hội Văn Bút.
Sau ngày 30-4-1975, Vũ Hạnh giữ chức Chủ tịch Hội Nhà Văn
TP/SG. Vũ Hạnh mang súng kè kè bên hông, thì bị thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, nửa đùa
nửa thật bảo: “Anh em văn nghệ sĩ chỉ quen càm bút chư có biết chơi súng đau”.
Nhưng mấy tháng sau, ông lắc đầu nói nhỏ “Totalement décu”
(hoàn toàn bị lừa). Với chức vụ Chủ tịch Hội Nhà Văn, chẳng có quyền hành và
quyền lợi gì, coi bộ đời sống thời bao cấp gặp nhiều khó khăn. Ít lâu sau, nghe
nói có một nhà giàu cộng tác để Vũ Hạnh mở ra một gánh hát cải lương, nhưng sau
đó dẹp tiệm. Vũ Hạnh lại tìm người có vốn mở xưởng làm xà bong, nhưng cũng
không khá vì thiếu nguyên liệu.
Ít lâu sau nữa, một trong những người bạn cho biết, Vũ Hạnh
đang tìm đường dây cho con vượt biên, nhưng bạn bè chả ai dám giúp đở vì sợ cái
bản chất phản bội của tên nằm vùng.
2.4. Những tờ báo của Việt Cộng và có Việt Cộng nằm vùng
2.4.1. Tờ Tin Văn
Báo nhà nước đưa tin như sau:
“Đầu năm 1966, đảng ủy giao cho cán bộ Vũ Hạnh đang hoạt động
trong “vùng bị tạm chiếm”, ngụy trang dưới chiêu bài “bảo vệ văn hoá”, xin phép
cho ra tờ Tin Văn, chủ trương chống văn hoá đồi trụy, chống văn hoá ngoại lai
đầu độc thanh niên.
Tờ báo được các cán bộ ta chỉ đạo, đứng đầu là đồng chí Trần
Bạch Đằng, Ủy viên thường trực Thành Ủy SG-GĐ, lãnh đạo tuyên huấn, mặt trận,
trí vận, Hoa vận, và thanh niên (bao gồm sinh viên và học sinh).
Chủ nhiệm tờ Tin Văn là Nguyễn Mạnh Lương. Một số nhà văn
cộng tác như Lữ Phương, Hồng Cúc, Nguyễn Hữu Ba, Vũ Hạnh. Toà soạn đặt trong
một ngôi chùa”.
Sau 1975, Vũ Hạnh viết như sau: “Tuần báo Tin Văn, với những
bài phê bình vạch mặt những tên xung kích chống cách mạng, qua các tác phẩm đồi
trụy, phản động, đã tạo ra một phong trào quần chúng sôi nổi. Ngụy quyền hoang
mang nên tìm cách phản kích. Chúng trắng trợn cho tên Chu Tử, tay sai của Sở
Công An và Phủ Đặc Ủy TW Tình Báo ngụy, bắt đầu một chiến dịch đả kích tôi, tố
cáo tôi là “VC nằm vùng”, và liên tiếp trong nhiều số báo như vậy, y đã “vu
khống tôi” cốt làm cho những người tham gia phong trào sợ hãi. Lúc đó, đảng ủy
văn hoá và thường vụ khu ủy, động viên, chăm sóc và giúp đở tôi về vật chất lẫn
tinh thần, thông qua vợ tôi. Mở đường dây liên lạc mới, tôi trực tiếp nhận sự
chỉ đạo của đảng.” (Trích từ Vũ Hạnh: Trui rèn trong lửa đỏ, trang 179).
Tên VC láu cá nầy là “VC chính cống”, thật sự nằm vùng, mà
nhảy lên như đỉa phải vôi, khi bị Chu Tử vạch mặt là “VC nằm vùng”, rồi lại nói
là “bị vu khống”. Bọn nằm vùng luôn luôn có phản ứng như thế!
2.4.2. Hai tờ báo có Việt Cộng nằm vùng
1. Tờ Đại Dân Tộc
Chủ nhiệm: Võ Long Triều
Tổng thư ký: Hồ Ngọc Nhuận
VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Bá Thành (hoạ sĩ Ớt)
2. Tờ Điện Tín
Chủ bút Hồ Ngọc Nhuận
Chủ nhiệm: cựu đại tá, cựu nghị sĩ Hồng Sơn Đông
Chủ bút: Hồ Ngọc Nhuận
2 VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt)
2.4.3. Nói về tờ Tin Sáng
Báo Tin Sáng có 3 thời kỳ:
1. Tin Sáng cũ trước năm 1973
2. Tin Sáng lậu từ 1973 đến 1975
3. Tin Sáng bộ mới từ ngày 10-8-1975 đến 1-7-1981
Tin Sáng cũ trước 1973. Toà sọan ở số 124 đường Lê Lai, Q.1.
do nhóm dân biểu đối lập, thân cộng và VC nằm vùng, như: Ngô Công Đức, Hồ Ngọc
Nhuận, Lý Chánh Trung, Dương Văn Ba, có cán bộ VC nằm vùng nhưng giữ chức vụ
khiêm tốn.
Trên tờ báo có 50 bài viết của LM Nguyễn Ngọc Lan, chửi Mỹ,
chửi VNCH và chống chiến tranh. Tin Sáng là nơi kích động các cuộc biểu tình
của nhóm SV/VC nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm. Tòa soạn bị đốt và có truyền đơn “Đồng
bào quyết đập chết những tên VC nằm vùng Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận. Quần
chúng rất phẩn nộ trước hành động đâm sau lưng chiến của dân biểu tay sai VC
Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận”.
Tin Sáng sau 1975.
Trần Văn Giàu nhận xét: “Các anh làm báo CS hơn CS”. Alain
Ruscio ghi lại trong cuốn Vivre au Vietnam như sau: “Không ai nói ngọt hơn Lý
Chánh Trung được. Mặc dù trong thâm tâm họ biết là họ đang nói dối, đang đóng
kịch. Nhưng điều quan trọng là lời nói đã phát ra thì không thu lại được”. Đó
là những tiếng chửi rất nặng nề của trí thức đối với trí thức. Không biết bọn
nằm vùng nầy có hiểu và cảm thấy nhục nhã hay không?
Ngô Công Đức cũng đã sáng mắt ra, trước khi chết cũng để lại
chúc thơ bộc bạch phân trần đôi điều, nhưng quá muộn. Nói chung, những tên VC
nằm vùng đã mở mắt ra, và té ngửa hết, nhưng đã muộn cho một cuộc đời.
Tại sao Tin Sáng sống được 5 năm dưới chế độ Cộng Sản?
Thứ nhất, báo Tin Sáng nịnh bợ VC hơn báo VC.
Thứ hai, Võ Văn Kiệt nhận thấy người dân miền Nam còn căm thù
VC. Từ đổi tiền, đuổi đi kinh tế mới, cải tạo thương nghiệp, xếp hàng mua gạo,
ăn độn, chồng, con, cha mẹ của đa số bị tù cải tạo. Người dân chưa thấy cái “ưu
việt” của XHCN như tuyên truyền. Trong khi đó, báo Sài Gòn GP thì còn non trẻ,
chờ cho đến khi thành lập tờ Thanh Niên, nói theo giọng điệu o bế người dân,
trình diễn màn lừa bịp, là “nói thẳng, nói thật”…, vì thế Võ Văn Kiệt chưa khai
tử báo Tin Sáng, để cho sống 5 năm trong tình trạng trái ngược, là mỗi khi số lượng
phát hành gia tăng lên cao, thì ban biên tập lại hồi hộp chờ ngày giờ kết liểu
cuộc đời nịnh bợ.
2.5. Trí thức thân cộng và bọn “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng
Sản”
Ở miền Trung thì nổi bật những tên Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha, Trần Quang Vọng,Trần Hữu Lực,
Trần Duy Phiên, Lê Văn Ngăn, Trần Vàng Sao, Võ Quê…
Hoàng Phủ Ngọc Tường phải sống những ngày khổ nhục, oán hận,
khi thấy người đồng chí trẻ của y là Bửu Chỉ đang ngủ với vợ của y là nữ đồng
chí, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
Ở miền Nam, thì có Tôn Nữ Thị Ninh, LS Trần Ngọc Liễng, GS Lý
Chánh Trung, LS Ngô Bá Thành. Những LM Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ,
các thượng tọa Thích Trí Quang, Nhất Hạnh.
2.6. Thành phần thứ ba và Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói
“Theo chỉ đạo của ta, một lực lượng chính trị mới ra đời, đó
là “Thành phần thứ ba” gồm trí thức, nhân sĩ, binh sĩ, dân biểu, báo chí, tu
sĩ, công thương gia, cựu tướng lãnh, có khuynh hướng chống Thiệu, đòi hoà bình,
nổi bật nhất là các nhân vật như LS Trần Ngọc Liễng, Ngô Bá Thành, KS Dương Văn
Đại, DB Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, Nguyễn Văn Hàm, Lý Chánh
Trung, LM Phan Khắc Từ, Thích Pháp Lan, ni sư Huỳnh Liên và nhà báo Nam Đình”.
Tướng Dương Văn Minh đại diện cho thành phần nầy ra đảm nhiệm chức Tổng thống.
Ni sư Huỳnh Liên, tịnh xá Ngọc Phương biểu tình chống chính
quyền Sài Gòn năm 1973
Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói
Ra đời tháng 9 năm 1974 do Đại đức Thích Hiển Pháp làm Chủ
tịch. Dân biểu Nguyễn Văn Hàm làm Tổng Thư ký. Các nghệ sĩ Kim Cương, Thanh Nga
tích cực tham dự. Ni sư Huỳnh Liên, LM. Phan Khắc Từ, các DB Kiều Mộng Thu, Hồ
Ngọc Nhuận, GS Lý Chánh Trung, LS Ngô Bá Thành…
“Ta đưa một số cán bộ đứng tên vào mặt trận: Ngọc Trảng, Ba
Thép, Xuân Thượng, với khẩu hiệu “Lá lành đùm lá rách” ẩn chứa nội dung tố cáo
chế độ. Hình thức biểu tình rất sáng tạo, biểu tình có ca hát “Dậy mà đi”. Biểu
tình “xa luân chiến”, không lớn mà liên miên từ ngày nầy qua đêm khác, đêm nầy
qua đêm nọ như bánh xe quay, làm cho cảnh sát ngụy mất ăn mất ngủ”. Phong trào
thì công khai, nhưng ra báo thì bí mật. Công khai thì có Kiều Mộng Thu trong
báo Đại Dân Tộc, ở tờ Điện tín thì có Lý Chánh Trung. Về phía bí mật, Cứu Đói
in 10,000 bản phổ biến trong quần chúng.
Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói lập khối Dân Tộc Xã Hội ở Hạ Viện
để đấu tranh nghị trường.
Tổ chức “báo nói”, “văn nghệ chạy”, “biểu tình ngồi”, “phát
chẩn”.
Ni sư Huỳnh Liên sinh tại Mỷ Tho năm 1923, mất ngày
16-4-1987, tên thật là Nguyễn Thị Trừ, ni sư trưởng Tịnh xá Ngọc Phượng. Đại
biểu QH Khoá VI. Phó Chủ tịch UB/MTTQ Sài Gòn, Ủy viên TW MTTQ/VN.
Bọn cứu đói cứng họng, cảm thấy ô nhục khi nhân dân kêu đói,
khi đồng bào ăn bo bo, ăn độn mà chúng lặn mất, im thin thít của thái độ hèn
nhát, lưu manh.
3* Dân biểu Việt Cộng nằm vùng và dân biểu thân cộng
Trên tờ Tuổi Trẻ trong nước, bài viết đề ngày 31-7-2012 với
tựa đề “Dân tin người thật tâm, thật tài”, nói đến 2 dân biểu VNCH là những
“chứng nhân lịch sử” của 37 năm về trước. Đó là dân biểu Nguyễn Văn Hàm từng
giữ cương vị Phó Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn, sau ngày 30-4-1975, và dân
biểu Đinh Văn Đệ, từng làm Chánh Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH.
DB Nguyễn Văn Hàm
3.1. Dân biểu Nguyễn Văn Hàm
Nguyễn Văn Hàm khoe thành tích như sau: “Ở Sài Gòn có những
cuộc biểu tình mà tôi và những người khác đã tổ chức rất công phu như “phong
trào cứu đói”, “ký giả đi ăn mày”. Cũng có những cuộc biểu tình tự phát, không
cần ai tổ chức cả. Quần chúng qui tụ quanh chúng tôi, gọi là “lực lượng thứ
ba”.
“Quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi, Nguyễn Văn Hàm làm thơ, viết báo,
giảng dạy triết học, văn chương. Tham gia Quốc Hội Hạ Viện khoá 2 (1971), là
một dân biểu đối lập, thủ lĩnh phong trào quần chúng Phật giáo”.
Sau 1975, đương sự làm Phó Chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân, bên
cạnh Ủy Ban Nhân Dân. Hội đồng chả có quyền hạn gì cả, rồi hắn bị đá ra. Vợ và
con vượt biên qua Úc. Có đứa con gái đang sống ở Minnesota, nhưng không nhìn
cha.
3.2. Dân biểu Đinh Văn Đệ
Sau năm 1975, nhiều người “bức xúc” khi thấy cựu dân biểu
Đinh Văn Đệ ra vào làm việc trong Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Sài Gòn. Võ văn
Kiệt cho biết : Hắn là người Cộng Sản mà không có đảng” (Il est Communist sans
party)
Đinh Văn Đệ
3.2.1. Đinh Văn Đệ là lính VNCVH
Tờ báo viết: “Ông Đinh Văn Đệ bị động viên đi lính rồi trở
thành trung tá Chánh văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH (1954-1961). Làm
Tỉnh trưởng Tuyên Đức kiêm Thị trưởng Đà Lạt (1963). Tỉnh trưởng Bình Thuận
(1964-1967).
Năm 1967, ra ứng cử dân biểu Quốc hội. Giữ chức Chủ tịch Ủy
Ban Quốc Phòng Hạ Viện. Tổng thống Thiệu cử ông làm “trưởng phái đoàn” sang Mỹ
xin viện trợ khẩn cấp. Kết quả chuyến đi, ông Đệ được Mặt Trận Giải Phóng Dân
Tộc Miền Nam tặng thưởng Huân Chương Chiến Công hạng nhất.”
Đinh Văn Đệ phát biểu: “Tôi được giáo dục từ nhỏ, mang sẵn
trong lòng tình yêu nước thực sự, yêu con người thực sự, không phân biệt tôn
giáo, không phân biệt chính thể. Bị động viên, tôi đành phải đi lính, và luôn
luôn giữ cái tâm lành, trung thực, ngay thẳng. Bao nhiêu năm đeo lon, đeo súng,
tôi không một lần sát sanh. Bây giờ xuất gia, theo đạo Cao Đài”.
Đinh Văn Đệ sinh năm 1924, mồ côi cha lúc 15 tuổi. Nhà nghèo,
học hết Trung học đệ nhất cấp rồi ra đi dạy học, theo đạo Cao Đài.
3.2.2. Người có công xây dựng gián điệp U 4
Năm 1969, danh sách điệp viên của tình báo chiến lược Việt
Cộng có thêm một tên mới, Đinh Văn Đệ, bí số U 4.
Người có công đầu, móc nối, tác động, xây dựng U 4, là Đinh
Văn Út, chú của Đinh Văn Đệ. Út có bí danh là Chín Mẫn, sinh năm 1919 tại Châu
Đốc. Chín Mẫn thuộc phòng tình báo T4 của Thành Ủy Sài Gòn Gia Định, thuộc
Trung Ương Cục miền Nam, còn gọi là Cục R, B2 và “Ông Cụ”. T4 do Mười Hương phụ
trách.
Năm 1969, Đinh Văn Đệ cung cấp tài liệu kinh tế hậu chiến của
VNCH, chính Đệ lấy xe riêng đưa người và tài liệu đến nơi an toàn. Cũng năm
nầy, Đệ thoả thuận và tiếp nhận toàn bộ qui ước liên lạc, mực mật, giấy viết
mực mật, thuốc hiện mực mật, vật ngụy trang, mật khẩu giao liên… nói chung,
Đinh Văn Đệ, Chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện Quốc Hội VNCH, đã chính thức
trở thành một gián điệp của Việt Cộng, mang bí số U 4 trực thuộc phòng Tình báo
mật danh J.22 của Cục R (còn gọi là B2). Em của Đinh Văn Đệ là Đinh Văn Huệ,
trước làm chính trị viên tiểu đoàn giao thông vũ trang thuộc J. 22
Đinh Văn Đệ
Đinh Văn Đệ kể những chiến công như sau.
1). Kế hoạch oanh kích Lộc Ninh
“Sau khi ta (VC) giải phóng Phước Long ngày 6-1-1975, đồng
chí Phạm Hùng muốn biết địch (VNCH) có ý định tái chiếm Phước Long hay không?
Tôi được giao phó nhiệm vụ trả lời câu hỏi nầy.
Trước hết, tôi điện qua Phủ Thủ Tướng, mời Tổng trưởng Quốc
Phòng ra điều trần trước Hạ Viện, tại sao thất thủ Phước Long? Trách nhiệm của
ai?
Tại buổi điều trần, Tổng trưởng QP đổ mồ hôi hột, bối rối vì
bị chất vấn sôi nổi, tới tấp. Tôi binh vực và đề nghị, mỗi lần điều trần như
thế nầy vất vả lắm, vậy Bộ QP cấp cho tôi cái giấy được tự do ra vào các nơi
liên hệ, để hỏi trực tiếp các cấp chỉ huy phần hành. Thế rồi, với tờ giấy trong
tay, tôi đến Phòng Hành Quân, thì gặp ngay người quen biết cũ, là một chuẩn tướng,
ông ta nói: “Đại ca đừng lo. Ai lại dại gì kéo quân đi lấy lại nơi mà mình
phòng thủ đã bị thất bại. Tôi sẽ trả thù bằng cách dội bom cho nát Lộc Ninh”.
Tôi báo cáo tin đó. Vài hôm sau, địch (VNCH) đã ném bom Lộc
Ninh, nhưng quân ta tránh được thiệt hại.
2). Trung Ương Cục ở đâu?
Trung Ương Cục Miền Nam (TWCMN) hay Cục R, B2, “Ông Cụ”, là
cơ quan đại diện cho Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, để chỉ đạo chiến trường
miền Nam. Ban Anh ninh TWCMN do thiếu tướng Cao Đăng Chiếm phụ trách từ năm 74
đến 75.
Ban An Ninh T4 thuộc về Thành Ủy Sài Gòn Gia Định do Mười
Hương phụ trách.
TWCMN hỏi tôi là địch (VNCH) có biết Cục R ở đâu không?
Tôi gọi điện qua Bộ QP/VNCH xin 3 chiếc trực thăng, cho tôi là
Chủ tịch Ủy Ban QP/HV, cho Trung tướng Tôn Thất Đính, nghị sĩ, Chủ tịch UB/QP
Thượng Viện và cho Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng, mỗi người một chiếc
trực thăng, thành lập một phái đoàn đi ủy lạo binh sĩ đang cố thủ tại Pleiku,
Đà Nẳng và Bến Cát (SĐ 5 đóng ở Bình Dương). Đi đến đâu tôi cũng hỏi các cấp
chỉ huy “Địch nó biết rõ vị trí của ta, vậy ta có biết Cục R ở đâu không? Tôi
đúc kết các câu trả lời và báo cáo về Cục R.
3). Xin viện trợ để cắt viện trợ
“Tôi tham gia phái đoàn sang Mỹ để xin viện trợ khẩn cấp, vì
Thiệu ngoan cố, cố chống giữ. Phái đoàn chia nhau đi “vận động hành lang” với
các cơ quan và chính khách Mỹ. Trước khi đi, tôi suy nghĩ, làm thế nào để vận
động xin viện trợ mà kết quả là bị cắt viện trợ. Khi sang Mỹ, mỗi dân biểu, nghị
sĩ đều có nhân viên của toà đại sứ đi kèm, nếu sơ hở là bị lộ ngay.
Với cái chiêu “nói vậy mà không phải vậy”, làm cho các đại
biểu trong đoàn thấy tôi là người tận tâm, tha thiết nhất trong việc xin viện
trợ để cứu chế độ Sài Gòn.
Với mục đích làm cho Mỹ nản chí và bỏ cuộc, tôi đưa ra hình
ảnh của người lính VNCH không còn muốn chiến đấu, đã bỏ chạy bằng cách níu càng
trực thăng, trốn ra khỏi chiến trường, thì người Mỹ hiểu ngay là họ phải làm
gì.
Khi tiếp phái đoàn, Tổng thống G. Ford cho biết: “Thôi các
bạn cứ yên tâm ra về, tôi sẽ cử một viên tướng qua thị sát tình hình rồi sẽ có
quyết định sau”. Nghe vậy, tôi hiểu là Mỹ đã bỏ cuộc”.
Theo chỉ thị của trên, Đinh Văn Đệ đã đưa một gián điệp mang
bí danh “Số 6” vừa tốt nghiệp cao học nước ngoài vào làm việc trong Ủy Ban QP
của Hạ Viện QH/VNCH.
Đinh Văn Đệ qua cái nhìn họa sĩ Ớt vào thời điểm trước năm
1975
Năm 1972, tình báo Hà Nội đã nhận đầy đủ chi tiết về hệ thống
tổ chức, về quân số ở các quân khu, về ngân khoản QP/VNCH, thậm chí còn nhận
những khoản viện trợ không công khai cho VNCH, ẩn dưới chương trình PL (Program
Law), thương mại hoá, tức không viện trợ bằng tiền, mà bằng hàng hoá, để VNCH
bán lấy tiền dùng cho quân sự.
Sau khi 2 giao liên Ngô Viết Triều và Nguyễn Thị Thành bị
bắt, cuối năm 1971, Đinh Văn Đệ được chuyển sang hoạt động đơn tuyến, nhận lịnh
trực tiếp của Cục R thông qua một nữ tình báo giao liên.
Đinh Văn Đệ
Đinh Văn Đệ hiện sống ở Sài Gòn vẫn khỏe mạnh và nổi tiếng là
một Thiên Vương Tinh đức cao trọng vọng của đạo Cao Đài.
Có một điều Đinh Văn Đệ dấu đầu lòi đuôi là “tôi luôn luôn có
cái tâm lành, trung thực và ngay thẳng”. Một tên gián điệp phản quốc, sống dối
trá, hành động phản bội mà còn cái gì gọi là tâm lành, trung thực, ngay thẳng
cho được?
4. Sinh viên nằm vùng
4.1. Danh sách 16 sinh viên bị chính quyền VNCH bắt giữ
Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Lê Thành Yến, Phùng Hữu Trân,
Trần Khiêm, Đỗ Hữu Ứng, Lê Anh, Võ Ba, Đỗ Hữu Bút, Hồ Nghĩa, Cao Thị Quế Hương,
Trương Hồng Liên, Trương Thị Kim Liên, Võ Thị Tố Nga.
4.2. Danh sách sinh viên thoát ly ra căn cứ Bắc Lộ 7,
Campuchia
Phan Công Trình, Nguyễn Đình Mai,Tôn Thất Lập, Trần Long Ân,
Nguyễn Văn Sanh, Lê Thành Yến, Trương Quốc Khánh, Huỳnh Ngọc Hải, Huỳnh Quang
Thư, Dương Văn Đầy, Trần Ngọc Hảo, Hai Nam, Năm Sao, Trần Thị Ngọc Dung, Hà Văn
Hùng, Trương Quốc Khoách.
4.3. Sinh viên Việt Cộng nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm
4.3.1. Huỳnh Tấn Mẫm
4.3.1. Huỳnh Tấn Mẫm
Huỳnh Tấn Mẫm tên thật là Trần Văn Thật, sinh năm 1943 tại
Sài Gòn. Trước 1975 là một đảng viên cộng sản nằm vùng, hoạt động công khai ở
Sài Gòn. Sau 1975, học tiếp y khoa, ra bác sĩ. Sang học Liên Xô về Triết học
Mác Lênin.
Trở về VN được cử làm Tổng Biên Tập báo Thanh Niên. Là thành
viên của Mặt Trận Tổ Quốc và hội viên Hội Liên Hiệp Thanh Niên.
Với những chức vụ như thế, Huỳnh Tấn Mẫm (HTM) trở thành một
cán bộ thuộc hàng cao cấp, có tiếng tâm của Sài Gòn.
Huỳnh Tấn Mẫm
4.3.2. Huỳnh Tấn Mẫm mở mắt nhưng quá trễ
Con đường hoạn lộ của HTM bị nhiều trắc trở, vì thực tế sau
1975 cho thấy, cái quan điểm tự do dân chủ kiểu “tư sản” của miền Nam không còn
được áp dụng trong chế độ chuyên chế XHCN. Ngoài HTM ra, các sinh viên VC khác
cũng đều vở mộng, cho nên đã thể hiện những hành động bị cho là “chệch hướng”,
không được lòng đảng vì khác đường lối, nên bị hạ tầng công tác, loại trừ.
Đã vậy, vợ của cán bộ cao cấp lại làm chủ hụi và giựt hụi. Vợ
ra toà lãnh án đã đành, Huỳnh Tấn Mẫm còn bị kêu ra toà làm chứng chống lại vợ,
nên mất uy tín.
Thế là một cuộc đảo chánh trong nội bộ, đã khai trừ HTM ra
khỏi tờ báo Thanh Niên năm 1990. Được chuyển về Hội Hồng Thập Tự, làm bác sĩ
phụ trách phòng mạch miễn phí, thế là hết cơ hội chấm mút, thu hoạch như các
đồng chí khác trên đường hữu sản hoá cán bộ trong thời đổi mới, mở cửa.
Mở phòng mạch ngoài giờ, chuyên chăm sóc da mặt, nặn mụn cho
phụ nữ, nhưng chẳng có ai chiếu cố tới, vì bác sĩ cách mạng, có một thời không
được bịnh nhân tin tưởng bằng “bác sĩ ngụy”. Riêng cá nhân HTM, trước kia chỉ
lo biểu tình, đấu tranh, chạy trốn và ở tù, thì còn ngày giờ đâu mà học với
hành. Hơn nữa, đảng cần “hồng” hơn “chuyên”, chỉ cần có quan điểm lập trường
101% cộng sản là một bác sĩ tốt rồi. Phòng mạch ế. Bị gán là bác sĩ chính trị,
mà thứ chính trị của CNCS đã bị ném vào sọt rác từ lâu rồi. Người ta nhận xét:
“bác sĩ nửa vời, chính trị nửa vời, cuộc đời cũng nửa vời, gia đình tan nát, sự
nghiệp tiêu tan. Hình ảnh “anh hùng” vang bóng một thời, làm rung chuyển chế độ
miền Nam đã chấm dứt trong cay đắng, chán chường, tiêu cực, mệt mõi”.
Kể ra ông trời cũng có con mắt.
5. Thành Đoàn Cộng Sản Sài Gòn Gia Định lộng hành
Thành Đoàn là tên gọi tắt của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí
Minh đang hoạt động trong nội thành Sài Gòn.
5.1. Thành Đoàn Cộng Sản giết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật
Ngày 28-6-1971, Biệt Động Thành bắn chết sinh viên Lê Khắc
Sinh Nhật ngay tại hành lang trường Luật Sài Gòn.
Ban ám sát Thành Đoàn cử 2 tên tới Đại Học Luật Khoa, số 4
đường Duy Tân, nhận là người nhà muốn gặp Lê Khắc Sinh Nhật có việc cần. Lúc
đó, sắp tới mùa thi cuối năm, Nhật đang hướng dẫn sinh viên năm thứ nhất về
cách thức thi cử tại một giảng đường. Nhật vừa ra tới hành lang, thì một tên
móc súng bắn liền 3 phát vào ngực. Hắn phóng lên một chiếc Honda nổ máy chờ sẵn.
Hắn ném lại một quả lựu đạn nhưng may mắn, lựu đạn không nổ. Cảnh sát gác bên
ngoài bắn 3 phát chỉ thiên. Nhạc sĩ Vũ Thành An sáng tác một bài hát tưởng niệm
Lê Khắc Sinh Nhật.
Lý do giết SV Lê Khắc Sinh Nhật
Thành Đoàn CS giết SV Lê Khắc Sinh Nhật (LKSN) vì 2 lý do:
Một là răn đe các sinh viên thuần túy, có tinh thần quốc gia
Hai là để trả mối hận bị đánh bại trong 2 cuộc bầu cử, mà
Liên danh của LKSN đã thắng Liên danh SV Việt Cộng Trịnh Đình Ban, trong cuộc
bầu cử Ban Đại Diện SV trường Luật niên khoá 1970-1971. Và đã thắng Liên danh
SV/VC trong tay Thành Đoàn trong cuộc bầu cử Ban Đại Diện Tổng Hội Sinh Viên
Sài Gòn, tại Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp (Nông Lâm Súc) ngày 20-6-1971.
Trong cuộc bầu cử nầy, khi thấy kết quả nghiêng về phía Liên danh LKSN do SV Lý
Bửu Lâm đứng đầu, thì bọn SV/VC giở ngay bản chất côn đồ, nhảy lên bục “đá
thùng phiếu để hủy bỏ kết quả bầu cử” và ấu đả, hỗn chiến xảy ra” (Trích trong
“Trui rèn trong lửa đỏ” trang 21 của thiếu tướng Trần Bạch Đằng)
Bị thất bại trong cuộc bầu cử, Thành Đoàn CS cay cú, đưa ra 2
quyết định:
Một là, sát hại SV Lê Khắc Sinh Nhật
Hai là, chỉ thị cho SV Huỳnh Tấn Mẫm, tập họp một số SV tại
Tổng Vụ Thanh Niên Phật Tử, số 294 Công Lý, vào ngày 28-7-1971 để bầu ra một tổ
chức ma, chưa bao giờ có, đó là “Tổng Hội Sinh Viên VN” do Huỳnh Tấn Mẫm làm
Chủ tịch. Tổ chức nầy không đại diện cho ai cả, ngoài đám SV/VC và một số ít bị
lừa.
Quyết định hạ sát SV Lê Khắc Sinh Nhật là một hành động tội
ác của Thành Đoàn CS/SG.
5.2. Thành đoàn CS/SG giết GS Nguyễn Văn Bông
Ngày 10-11-1971, SV/VC Vũ Quang Hùng (bí danh Ba Diệp, năm
thứ 3 Khoa học) và tên Lê Văn Châu, dùng chất nổ ám sát chết GS Nguyễn Văn
Bông, Viện trưởng Quốc Gia Hành Chánh, tại ngã tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản.
Hai tên Hùng và Châu thuộc Trinh sát võ trang bí số S1, hoạt động nội thành
SG-GĐ, thuộc Ban An ninh T4 của Thành Ủy SG-GĐ (trong mật khu). Cả hai bị bắt,
đày đi Côn Đảo.
Sau ngày 30-4-1975, Vũ Quang Hùng viết : “Tôi ám sát người
sắp làm thủ tướng” và rất hảnh diện về thành tích đó. Tên Hùng giải thích lý do
giết GS Nguyễn Văn Bông như sau: “Tin tình báo cho biết, GS Nguyễn Văn Bông sẽ
làm thủ tướng vì chính quyền ngụy muốn chuyển từ quân sự sang dân sự. GS Bông
là một trí thức rất có uy tín mà lên làm Thủ tướng, thì cách mạng sẽ khó khăn
hơn. Để giữ bí mật, tôi đặt tên mục tiêu phải giết với bí số G.33”.
Đến tháng 4 năm 2000, trong lễ kỷ niện 25 năm ngày “chiến
thắng 30 tháng 4”, nhà báo chuyên về tình báo Nam Thi của báo Thanh Niên, cũng
kể lại “thành tích” nầy, trong đó có sự trợ giúp đắc lực của SV kiến trúc
Nguyễn Hữu Thái, người đã theo tướng Dương Văn Minh đến đài phát thanh để tuyên
bố đầu hàng trong ngày 30-4-1975. Chính SV Nguyễn Hữu Thái làm “xướng ngôn viên
bất đắt dĩ”, đã giới thiệu tướng DVM đọc tuyên bố. Sau đó, Nguyễn Hữu Thái xuất
cảnh sang Canada theo diện đoàn tụ gia đình.
Phu nhân của GS Bông có lẻ đã biết tên tòng phạm nầy.
Trong phỏng vấn của đài RFA, ký giả Mạc Lâm ghi lại như sau:
“Đã hơn 40 năm, những nạn nhân như bà Lê Thị Thu Vân, tức bà Jackie Bông, phu
nhân của cố giáo sư lừng danh Nguyễn Văn Bông, bị tên SV Vũ Quang Hùng ám sát,
tuy không bao giờ quên nổi biến cố bi thương, bổng ập xuống cuộc đời bà và các
con nhỏ dại của bà năm xưa. Nhưng bà đã lấy tâm Phật mà “cầu nguyện cho ông ấy
(tức tên Vũ Quang Hùng, kẻ đã giết chồng bà) và mong nhà cầm quyền Hà Nội “mở
mắt ra”, “mở tấm lòng ra”. (RFA ngày 5-5-2011)
Ngoài việc ám sát GS Nguyễn Văn Bông, Thành Đoàn còn ném lựu
đạn M-26 vào xe của BS Lê Minh Trí, Tổng trưởng GD&TN ngày 6-1-1969.
Hai tháng sau, đến lượt BS Trần Anh, Tân Viện Trưởng Viện Đại
Học Sài Gòn, bị bắn chết trước cổng trường Chu Văn An, bên cạnh Đại học xá Minh
Mạng, ngang nhà thờ Ngã Sáu, Chợ Lớn. BS Trần Anh đang đi bộ từ Bộ Y Tế trên
đường về nhà ở bên cạnh Đại học xá Minh Mạng.
6* Phan Nhật Nam tố cáo Việt Cộng nằm Vùng
6.1. Thiếu tá “VC Killer” Thái Quang Chức
6.1. Thiếu tá “VC Killer” Thái Quang Chức
Trong bài viết tựa đề “Những tên Việt Cộng nằm vùng”, một
thiếu tá Hải quân có danh hiệu là “VC Killer” mang tên Thái Quang Chức, em của
tướng Thái Quang Hoàng.
Năm 1957, thanh niên Thái Quang Chức lội qua sông Bến Hải
vượt tuyến vào Nam. Tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức, về làm việc tại Bộ Tư
Lịnh Hải Quân Vùng 4, Sông Ngòi, Mỷ Tho.
Năm 1970, mang lon thiếu tá, nổi tiếng là “VC Killer”, vì sau
cuộc hành quân, xác VC được kéo chạy trên sông để biểu dương ý chí chống Cộng.
Trong những ngày sau cùng của tháng 4 năm 1975, tướng Thái
Quang Hoàng cho người em xuống Mỷ Tho gọi Chức về để cùng gia đình di tản,
đương sự quyết định ở lại để góp phần xây dựng quê hương.
Trình diện học tập cải tạo, Chức được đưa đến trại Hoàng Liên
Sơn.
Hai năm sau, năm 1977, một người mặc thường phục đến bộ chỉ
huy đoàn 776, đưa thiếu tá “VC Killer” ra khỏi trại, về làm nhiệm vụ mới.
6.2. Trung úy Trần Trung Phương, tiểu đoàn 3 Nhảy dù, VC nằm
vùng
Do được giới thiệu, tác giả đến một đường dây chạy giấy xuất
cảnh. Đến một cơ sở không có bảng hiệu, nhân viên thường phục tiếp đón với thái
độ “chúng tôi đã biết rõ tất cả”, “chào anh Nam, anh có mạnh không?”. Anh ta
nói: “Tôi biết anh nhiều lắm”, rồi mở tủ hồ sơ lấy ra cho coi Chứng Chỉ Nhảy Dù
do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn Dù cấp, có ký tên đóng dấu của trung tá Trần
Văn Vinh.
Anh ta tự giới thiệu: “Trung úy Trần Trung Phương, gốc Đại
Đội 33, tiểu đoàn 3 Dù, đơn vị cuối cùng là “Biệt Đội Quân Báo Điện Tử Sư đoàn.
Là nhân viên Đặc vụ Sở Phản Gián Bộ Nội Vụ (Cộng Sản).
Điều kiện đưa ra, tôi có thể làm hồ sơ cho anh ra khỏi VN tối
đa là 8 tháng. Gia đình anh tại Mỹ phải trả cho người của chúng bên đó 2,000 đô
là, và kèm thao một số điều kiện…
“Lẽ tất nhiên, tôi không chấp nhận điều kiện của Phương, từ
2,000 đô la đến “những điều kiện khác…”.
Sau đó, năm 1993, để giúp một người quen cần phải xuất cảnh để
giải quyết những khó khăn, tôi tìm đến Trần Trung Phương ở một địa chỉ mới, là
một văn phòng ở khách sạn đường Nguyễn Văn Trỗi, nhân viên văn phòng cho biết,
ông Phương đang Hoa Kỳ, ở vùng Westminster, Cali.
Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, Hạ Lào, những bãi đáp đổ
quân, những vị trí tấn công, toạ độ dội bom B-52 của SĐ Dù, đã bị quân báo VC
giải mã từ cơ quan đầu mối, tối cao, là Biệt Đội Điện Tử và Phòng Hành Quân SĐ.
Ngày 30-4-1975, viên hạ sĩ quan ở đơn vị đó mà tôi biết, đã
dẫn trung tá Nguyễn Văn Tư, Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh SĐ Dù, qua Camp Davis
để giao nộp hồ sơ trận địa của đơn vị mà hạ sĩ quan nầy đã lưu giữ từ hơn 10
năm trước đó.
Phan Nhật Nam: “Tôi có bổn phận chỉ đích danh những cá nhân
tác hại, điển hình như Trần Trung Phương, Thái Quang Chức, những hạ sĩ quan và
những công an VC, đã đi theo diện ghép với những gia đình HO và ODP hiện tràn
lan khắp các cộng đồng người Việt hải ngoại”.
Ngoài những tên VC nằm vùng mà ông Phan Nhật Nam nêu trên,
còn có 1 tên vô cùng lợi hại, đó là một thượng sĩ.
“Giữa tháng 4, 1975, Bộ Chính Trị nêu vấn đề, nếu chúng ta
đánh lớn, liệu Mỹ có nhảy vào cứu nguy hay không?
Giải đáp câu hỏi nầy là công lao của đồng chí Nguyễn Văn
Minh, là thượng sĩ giữ hồ sơ tuyệt mật của Cao Văn Viên. Lúc đó, thư của TT/HK
gởi cho Thiệu: “Cuộc chiến tranh VN coi như đã chấm dứt đối với Mỹ, chi viện
700 triệu đô la, còn mọi việc khác thì tùy theo quý ngài định liệu”. Bản sao
bức thư được gởi cho Cao Văn Viên. Đồng chí Minh lập tức chép lại, gởi ra bộ
chỉ huy miền. Nhờ tài liệu nầy mà BCT nắm được điểm yếu của địch, nên nêu
phương châm tấn công “Thần tốc - Táo bạo - Chắc thắng”.
7* “Những bí ẩn của báo Người Việt”
Đó là cái tựa của bài viết trên tờ SGN ngày 28-7-2012.
Căn cứ vào 2 trang web Tân Đại Dương và trang tài liệu
401k-plans, để xác định “Nguoi Viet Daily News không phải là một công ty,,
“Corporation Nguoi Viet Inc.” như đã công bố trên báo chí. Tác giả bài viết đặt
câu hỏi: “Ai là chủ thực sự của báo Người Việt?”
Đây là một câu hỏi cần được phải trả lời để đánh tan những
nghi ngờ gần như xác định về báo Người Việt, đang sôi nổi trong những ngày gần
đây. Đương nhiên là báo NV có quyền không trả lời, tuy nhiên, nếu không trả lời
rõ ràng và hợp lý thì dễ biến sự nghi ngờ trở thành xác định.
Hôm nọ, xem ông Ngô Kỷ liệt kê “thành tích” của báo Người
Việt trên You Tube, thì quả thật, báo Người Việt rất đúng, chẳng sai tí nào đối
với những tố cáo của các đoàn thể vừa qua. Hết phương chối cãi. Những lời lẻ
binh vực xem như ngụy biện, không thuyết phục.
8* Kết
Đem tình trạng “Việt Cộng nằm vùng ở miền Nam trước năm
1975”, đặt vào tình trạng của phong trào đấu tranh cho một nước VN tự do, dân
chủ, nhân quyền hiện tại, thì mới thấy rõ bài bản, âm mưu và kỹ thuật đánh phá
của VC trong nước. Thời nào cũng vậy, ở đâu cũng có bọn lưu manh nằm vùng cả.
Bản chất của bọn nằm vùng là gian manh, xảo trá và phản bội, tôi ác của bọn
chúng là đã góp phần đưa dân tộc VN vào chế độ độc tài Cộng Sản hiện nay.
Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ,
đừng có tưởng chết là hết.
Trúc Giang
--------------------------------------------------------------------------------------------------------
NHỮNG KẺ ĂN CƠM QUỐC GIA THỜ MA CỘNG SẢN:
TRƯỜNG HỢP LÝ CHÁNH TRUNG
Lý Chánh Trung, Tố Hữu, Lê Quang Vịnh, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Đình Thi. |
Trong một
bài biên khảo nhan đề: 20 năm giới trí thức miền Nam, tôi đã có dịp đề cập đến
trường hợp Lý Chánh Trung.. như một biểu tượng của trí thức thiên tả miền Nam
trước 1975. Nhưng nay ông vào tuổi xế chiều mà thời gian còn lại cho ông không
còn bao nhiêu nữa. Vinh danh và quyền lực của đảng cộng sản dành cho ông như chức
tước cũng đã đến lúc trắng tay.
Cuộc sống của ông hiện nay lúc cuối đời xem ra thanh bạch, đạm bạc mà nhiều phần
là túng thiếu.Còn nhớ vào những năm tháng ấy, sau 1975- quyền lực trong tay cũng có- vậy mà Lý Chánh Trung cảm động và khoe một cách hãnh diện là vừa có học trò cho một bao gạo.
Bao gạo ấy đượm tình nghĩa thầy trò của người miền Nam, nhưng nó tố cáo một cách gián tiếp chế độ bất nhân ấy.
Cái còn lại như chứng tích duy nhất của nền Đệ Nhất Cộng Hòa để lại cho ông là căn nhà của ông ở làng đại học Thủ Đức, số 17 đường công lý, phường Bình Thọ, quận Thủ Đức, Sài gòn. Chính nơi đây con cái ông lớn lên, được nuôi dưỡng ăn học và nay là cái mái che mưa nắng cho ông lúc tuổi xế chiều[1]
Sự đãi ngộ ấy có thể ông không bao giờ muốn nhìn nhận, có thể ông chỉ coi như một điều đương nhiên là như thế..
Nay được biết ông lại bị bệnh lãng trí nặng, đi lang thang quên cả lối về nhà. Chắc nhiều bạn bè thương cảm và buồn cho ông.
Buồn thì đúng rồi.
Nhưng với tôi, tôi nghĩ nó lại là cơ may, là nguồn hạnh phúc cho riêng ông.
Nếu ông còn trí nhớ, còn biết vui buồn, còn biết phân biệt thị phi nhìn thấy cảnh đất nước như ngày hôm nay- như trường hợp luật sư Lê Hiếu Đằng- thì có khi đến chết ông cũng không nhắm mắt được.
Lý Chánh Trung hơn ai hết là một giáo sư triết hiểu sự mất trí nhớ đôi khi lại là là con đường giải thoát cho riêng ông.
Mới đây nhất, cậu con trai út Lý Trung Dũng, sinh năm 1970, phóng viên báo Tuổi Trẻ trước đây bị xe ô tô cán, sau nhiều năm chữa trị đã qua đời ngày 22 tháng11-2013.
Cuộc sống vắn vỏi ấy kết thúc một cuộc đời-kết thúc cả cuộc đời tuổi trẻ đến phi lý- phải chăng Lý Trung Dũng như một con chiên làm vật hiến tế thay cho bố?
Tin chắc là ông buồn vô kể. Như một phần đời của ông không còn nữa. Tôi còn nhớ, đến thăm ông, tiếng kêu của Dũng ở trong nhà vọng ra ngoài phòng khách, ông làm như thản nhiên tiếp tục nói chuyện.
Khi buổi chiều ra về, lòng tôi chùng xuống một nỗi buồn. Trên tay cầm cuốn: Một thời bom đạn, một thời Hòa Bình. [2]
Lý Chánh Trung trước 1975, khi viết thường luôn luôn kết án chế độ tư bản bóc lột, đã làm tha hóa con người. Theo ông,con người bị vong thân trở thành những công cụ. Đó là hình ảnh của những con sen, thằng ở, cô vũ nữ, anh bồi, anh tài xế.. những người lao động là nạn nhận nằm trong mối tương quan :ông chủ- thằng ở.
Hoàn cảnh ấy so với người trí thức miền Nam trở thành công cụ cho chế độ cộng sản thì có khác gì? Nghĩ tới hoàn cảnh người trí thức miền Nam, miền Bắc- hoàn cảnh của một Lý Chánh Trung hiện nay thì cũng chỉ là một công cụ của chế độ? Nói huỵch tẹt là một thứ nô lệ tệ hơn nô lệ. Bảo sao thì phải nói vậy.
Có bao giờ Lý Chánh Trung nghĩ rằng chính ông hiện đang vong thân, tự đánh mất phẩm tính, nhân cách con người, trở thành những con vẹt biết nói?
Vì thế, tôi thiết nghĩ cần có một bài viết đầy đủ về ông- như một nhân chứng sáng giá nhất cũng như bi kịch nhất- của một trí thức miền Nam đã tự vong thân cho cộng sản và nếu không nói bây giờ thì còn có dịp nào để nói?
Một lần nữa, tôi muốn đi lại hành trình trí thức cũng như những hoạt động thời VNCH và thời sau 1975 của ông.
Đó là hai thời kỳ, hai chặng đường của một người trí thức tiêu biểu của miền Nam.
Hai thời kỳ ấy, ông đã diễn dịch và phân định bằng hai biểu tượng là: Một Thời đạn bom. Một thời Hòa Bình.[3]
Một thời đạn bom được hiểu là một thời oan trái do bom đạn Mỹ gây ra. Và một thời Hòa Bình, thời sau 1975 mà dân chúng được hưởng tự do, an bình, hạnh phúc, ấm no.
Thật là mỉa mai quá. Thời bom đạn vì ai nên nỗi. Và thời Hòa Bình, hạnh phúc nơi mô? Hòa bình kiển nào, cho ai sau 1975?
Sự phân hai thời kỳ của Lý Chánh Trung đã giản dị hóa đến cùng cực thực tế đau buồn của cả hai thời kỳ. Nó chỉ còn là những tuyên truyền đầy cảm tính.
Cuộc chiến được tô vẽ như một bên thật giầu, thật lớn, thật mạnh, một bên thật nghèo, thật nhỏ, thật yếu. Một bên thả bom, một bên hứng bom. Một bên đi giầy, một bên chân không, một bên mập lù, một bên ốm nhách. Một bên cỡi máy bay, một bên chạy bộ…Và cứ thế, trong năm năm trời, không bên nào thắng bên nào..
Và ông có một giấc mơ được huyễn hoặc:
Trên đỉnh núi Sọ, trơ vơ một cây thập giá. Trên cây Thập giá, có một người bị đóng đinh đang hấp hối.. Chung quanh người bị đóng đinh vần vũ một bầy kên lông trắng, lông vàng với những cái cánh bao la che kín mặt trời..
Tôi đến dưới chân Thập giá, ngước mắt nhìn lên.
Người bị đóng đinh là dân tộc tôi. [4]
Đọc những dòng trên, tôi có cảm tưởng Lý Chánh Trung chả thua gì một Tố Hữu ngoài Bắc.
Tôi không nói oan cho ông đâu. Những Lê Hiếu Đằng, những ông Hồ Ngọc Nhuận, những Lý Quý Chung cũng đã từng là những con vẹt biết nói tiếng người như thế cả. Trách ai bây giờ?
Lý Quý Chung trong một dịp trả lời phỏng vấn của Alain Ruscio nhận xét :
"Như phần đông những người bạn tôi ở đây, tôi đã sống nghiệm trải hai chế độ báo chí..Trước đây chúng tôi đã là những người thợ bửa củi, còn bây giờ, chúng tôi là những người thợ mộc. Thái độ đã hoàn toàn khác. Bây giờ chúng tôi lao mình vào việc xây dựng. Bây giờ tôi cảm thấy mình có ích cho xã hội hơn cho Việt Nasm, cho dân tộc tôi, liên hệ gắn bó với dân tộc, trách nhiệm hơn’.[5]
Hãy cứ hỏi 700 tờ báo hiện nay ở VN họ là thợ bửa củi hay họ là thợ mộc?
Chính vì làm báo kiểu thợ mộc Lý Quý Chung mà khi giáo sư Trần Văn Giàu đến thăm tòa báo Tin Sáng lần đâu tiên đã đưa ra lời nhận xét khen mà mỉa mai như sau :
‘ Các anh làm báo cộng sản Như… Cộng sản
Lần sau ông đến khen nhiều hơn :
Các anh làm báo cộng sản Hơn.. cộng sản.[6].
Lời khen này nếu hiểu ra thì quả thực Trần Văn Giàu quá hiểu cộng sản cũng như quá hiểu những kẻ nịnh cộng sản.
Có nghĩa là các anh nịnh giỏi quá.
Vì thế, Hồ Ngọc Nhuận khi viết cuốn Hồi Ký Đời, đã ghi chú thêm : Chuyện về những người tù của tôiNhững người tù ở đây là ai? Là Nguyễn Ngọc Lan, là Lý Chánh Trung, là Lê Hiếu Đằng, là Ngô Công Đức, là Dương Văn Ba, là Nguyễn Hữu Hiệp mặc dầu họ chưa đi tù một ngày nào trong chế độ mới.
Nói chung, đọc hết các sách của Lý Chánh Trung như Tìm Về Dân tộc, Tôn Giáo và Dân Tộc, Những Ngày Buồn Nôn. Tôi chỉ thấy những lời nguyền rủa và xưng tụng.
Nó thiếu vắng một nụ cười .
Để cho việc vẽ lại chân dung và diện mạo cũng như hành trình nhận thức hay hành trạng cuộc đời Lý Chánh Trung được đầy đủ, xin chia bài viết làm hai phần:
- Lý Chánh Trung trước 1975- Thời đạn bom
- Lý Chánh Trung sau 1975- Thời Hòa Bình
.- Cuộc đời Hoạt động của ông trước 1975
Lý Chánh Trung và những người trí thức công giáo
Ông đã tự vẽ chân dung của mình là khi từ Bỉ về nước, ông đã về quê ở Vĩnh Bình và dạy cho một trường học là cơ sở của Cách mạng. Một thời gian ngắn sau ông lên Sài Gòn..Năm 1955, ông từ bỏ Vĩnh Bình- quê ông- và gia nhập vào trong nhóm trí thức công giáo Pax Romana với các quý ông như bs Nguyễn Văn Ái, lm Nguyễn Bình An( qua đời rất sớm vì bệnh cancer) bs Nguyễn Văn Thơ, luật sư Nguyễn Văn Huyền, các giáo sư Phạm Thị Tự, Phó Bá Long, Trần Long, các chuyên viên như Lâm Võ Hoàng, Anh Tôn Trang, Võ Long Triều, Đoản Thanh Liêm vv
Nhóm này đã tổ chức’ Tuần lễ Hội Học công giáo ‘ và và cho ra ‘ Tủ sách Đạo và Đời»
Đây là giai đoạn hiền lành và trong sáng nhất của một người trí thức như ông. Nó tiêu biểu cho giới trí thức công giáo thành thị mà phần đông du học ở ngoại quốc về.
Sau đó do sáng kiến phần lớn của Nguyễn Đình Đầu để thể hiện tinh thần Công đồng Vatican 2, ông cùng với Nguyễn Văn Trung Nguyễn Đình Đầu, Anh Tôn Trang chủ trương tờ tuần báo Sống Đạo. Trụ sở tờ báo là mượn văn phòng xã hội của linh mục Parrel, trên đường Nguyễn Du, cạnh nhà thờ Đức Bà.
Lý Chánh Trung và Lý Lan Phương, con gái Lý Chánh Đức |
Sau đây, xin trích dẫn vài bài báo của Lý Chánh Trung đã được đăng trên Sống Đạo vào các tháng 7,8,9 năm 1962 như :
Thân Phận tôi đòi
Ông chủ xe hơi và cô thư ký-
Hai giới thanh niên
Những gót chân non
Các bài viết của Lý Chánh Trung trong thời kỳ này đã có những ám ảnh mà chủ yếu đặt nặng vấn đề Công Bằng Xã hội- một đề tải quen thuộc và được ông khai thác nhiều lần-. Nó phản ánh một phần các tư tưởng xã hội của chủ nghĩa Mác Xít trong đó có các vấn đề Cần Lao, vấn đề Vong Thân, vấn đề Bạo động tranh đấu giai câp, vấn đề Bóc lột giữa chủ và thợ ..vv..
Những ý tưởng then chốt về công bằng xã hội sẽ là những bước mở đường cho Lý Chánh Trung một ngày không xa đến thực sự với cộng sản.
Nói như thế chỉ là hoàn cảnh đặc biệt dành cho Lý Chánh Trung thôi.. Những sinh viên nào ngồi trên ghế nhà trường đã bước qua cổng trường của Platon thì không có gì xa lạ với những chủ đề xã hội trên
Tôi còn nhớ, lúc bấy giờ Báo Sống Đạo bán rất chạy, gây được tiếng vang lớn. Ai cũng hăng say tin tưởng từ anh em viết bài chủ lực, đến các sinh viên và đến anh em phụ trách phát báo.. Phản ứng của độc giả thì nhiều- đủ loai khen chê tức giận cũng có, đôi khi cấm bán báo nữa.-
Phần Lý Chánh Trung được đề nghị làm chủ bút. Nhưng ông thừa biết, bọn trí thức Bắc Kỳ công giáo làm hết mọi chuyện:-Từ sáng kiến cũng do họ- tổ chức do họ- phương tiện vật chất do họ tự liệu- viết cũng do họ. Nhưng họ vẫn đẩy ông ra làm người đứng đầu.. Sau này cũng thế khi làm các tờ Hành Trình, ông vẫn giữ vai trò chủ bút. Nguyễn Văn Trung vai chủ nhiệm. Việc thì người khác làm, danh xưng thì ông nhận.[7]
Và nhóm trí thức này cũng đã tổ chức được một tuần lễ Hội học xã hội dưới nhan đề: Lương tâm công giáo và công bằng xã hội vào năm 1963, do nhóm Trí thức công giáo Sài gòn. Điều hành và tổ chức cũng do tụi công giáo Bắc Kỳ làm hết. Nhưng bài thuyết trình khai mạc cũng dành cái vinh dự đó cho ông..Với sự góp mặt của Lý Chánh Trung, Trần Văn Toàn, Trần Long, Anh Tôn Trang, Võ Long Triều, Mai Văn Lễ, Lm Nguyễn Bình An, Nguyễn Văn Trung.
Lý Chánh Trung với bài tham luận khai mạc: Sự phát triển của ý niệm Công Bằng trong lịch sử. Nguyễn Văn Trung là người kết thúc tuần lễ hội thảo với:Trách nhiệm hiện tại của người công giáo. [8]
Xin lưu ý là trong tuần lễ Hội thảo này, ban tổ chức đã chỉ mời giới chưc lãnh đạo tôn giáo như TGM Nguyễn Văn Bình, cả Khâm sứ tòa Thánh.. Nhưng đã không mời đại diện chính quyền như ông Trần Kim Tuyến hay Ngô Đình Nhu..
Điều đó muốn nói lên tính cách độc lập của buổi Hội thảo. Và họ củng thừa biết rằng, dù có mời, ông Ngô Đình Nhu cũng không đi dự vì ông không muốn dính dáng vào sinh hoạt của tôn giáo…
Giữa ông Diệm, ông Hồ, Lý Chánh Trung chọn ai? Một chọn lựa chính trị?
Ông đặc biệt ác cảm với ông Diệm ngay từ lần đầu gặp gỡ khi còn là sinh viên ở Bỉ. Ông kể lại có gặp ông Diệm một lần khi ông nảy đến thăm sinh viên. Ông tỏ ra thất vọng vì ông Diệm thân Mỹ và không am hiểu hết về các vấn đề xã hội.
Trong một bài viết, ông còn tỏ ra bất công và miệt thị ông Diệm một cách nặng nề. Mặc dầu khi về Việt Nam, ông cũng đã được trọng dụng hơn ai hết trong guồng máy giáo dục miền Nam. Ông cũng như ông anh ruột Lý Chánh Đức trở thành nhữngcông chức cao cấp trong ngành giáo dục với vị trí giám đốc và Tổng Thư ký bộ giáo dục, rồi giáo sư đại học, có nhà ở khu làng đại học Thủ Đức và đây là những nhận xét đầy miệt thị của ông trước cái chết của ông Diệm:
Nhưng từ đó mà cho rằng chế độ ông Diệm là một thời đại hoàng kim và chỉ cần bắt chước ông Diệm là có thể giải quyết những vấn đề đất nước, như một số tay chân bộ hạ của ông đang tuyên bố rùm beng thì thật là lố bịch và vô liêm sỉ.
Những người đang hò hét khóc lóc chung quanh cái tên ông Diệm như một bầy quạ trên một xác chết..
Và nếu họ không còn chút tự trọng, xin họ dầu sao cũng thương dùm ông Diệm. Tội nghiệp ông! Tôi ứa nước mắt mà viết câu này, xin họ hiểu cho.[15]
Nhưng đối với ông Hồ Chí Minh thì ông tỏ ra cung kính hết mực như trong một bài viết của ông nhan đề:Nói chuyện với người đã khuất, nhân dịp Hồ Chí Minh qua đời.[16]
Cho nên tôi không tiếc mà cũng không trách cụ Hồ đã lựa chọn con đường cộng sản. Tôi chỉ khâm phục Cụ đã trung thành tuyệt đối với sự lựa chọn của mình. Tôi không thể đi theo con đường của Cụ, nhưng tôi có thể noi gương Cụ để đi tận cùng con đường của tôi, con đường mà tôi đã lựa chọn trước lương tâm tôi, như Cụ đã làm 50 năm trước. 50 năm trước, với sự thành công của Cách Mạng tháng 10, với nhân cách và tài năng vô song của Lê Nin, với cái bầu khí huynh đệ, chí tình, hăng say và tin tưởng trong một đệ tam Quốc tế vừa thành lập với một điểm tựa vững chắc, chủ nghĩa cộng sản đã hiện ra tước mắt Cụ như là con đường duy nhất để giải phóng/ dân tộc và giải phóng con người…
Những đoạn văn viết như thế này, nếu có dịp đọc lại thấy ngượng- ngượng cho cả người viết lẫn người đọc-.
Ông viết như thế mà nhiều người không thù oán ông và chính thể của nền Đệ Nhị Công Hòa cũng để ông yên. Ông vẫn được làm đổng lý văn phòng Bộ giáo dục. Đi làm vẫn có tài xế đưa đón.
Ông ăn thóc nhà Chu mà chửi nhà Chu. Hoặc ông rập khuôn cái tinh thần : Nắng được lúc nào thì cứ nắng như trong một bài viết của cụ Phan Khôi chăng?
Nhưng người cộng sản đọc thì đánh giá ông là người cộng sản không có thẻ đảng. Một lời khen hay một lời cảnh cáo?
Thế nhưng, trong cả hai chế độ Đệ Nhất và Đệ Nhị miền Nam, ông đều tạo cho mình một chỗ đứng cao và không phe phái nào oán ghét cả. Và từ chỗ đó, ông là người người miền Nam duy nhất có thể thỏa hiệp, đồng hành với nhiều phía ở ngoài chính quyền. Từ cấp tiến tới khuynh tả rồi cuối cùng tới cộng sản, từ công giáo tới Phật giáo, từ phe cánh miền Nam tới thành phần lực lượng thứ ba thiên tả.
Chỗ nào có chống đối là có ông.
Lý Chánh Trung- nhà trí thức thiên tả- Hoạt động Cánh tả.
“Những Ngày Buồn Nôn” của tác giả Lý Chánh Trung
Sau 1963, tình thế xã hội, chính trị,quân sự có nhiều dấu hiệu xấu đi. Tình thế mỗi ngày mỗi bi quan tỏ ra lúng túng, rối loạn, không đường lối, thiếu cả chính nghĩa đến tính hợp pháp.
Sự bất tài càng rõ nét nơi các nhà lãnh đạo miền Nam. Họ thay đổi chính phủ như cơm bửa tạo ra một tình thế bất ổn chính trị.
Nghĩ là có một khoảng trống chính trị về quyền lực nên một năm thay đổi ba bốn chính quyền.
Tâm trạng giới trẻ và giới trí thức rơi vào tinh trạng chán nản và mất tin tưởng hay trăn trở muốn đi tìm một giải pháp cứu nguy miền Nam.
Khuynh tả với thành phần thứ ba xuất hiện như một giải pháp của không giải pháp.
Kể từ đây, gió đổi chiều. Lý Chánh Trung nổi bật lên như một người trí thức tiêu biểu nhất!!! Trí thức khuynh tả đã ra đời trong hoàn cảnh này và thuộc nhiều dạng, nhiều thành phần, nhiều mức độ.
Có loại như Thích Nhất Hạnh, Trí Quang, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, Huỳnh Công Minh, Thiện Cẩm. Hầu hết thuộc giới tu sĩ công giáo hay Phật giáo. Cái lợi điểm của những vị này là bộ áo nhà tu- mầu nâu hay mầu đen không đáng kể- mặc bộ áo nhà tu như một thứ lá chắn chính trị không ai dám đụng tới họ. Phần lớn chỉ sau 1975, họ mới ló dạng và cho biết họ là ai.
Có loại trí thức tham gia tích cực như Ngô Bá Thành, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Trần Ngọc Liễng, Hồ Ngọc Nhuận, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương, Nguyễn Hữu Hiệp, Trần Hữu Lục, Châu Tâm luân, Ngô Kha, Thế Nguyên ..Họ được coi là trí thức thiên tả và sau tự nhận là trí thức thuộc lực lượng thứ ba (Troisième force) rồi lần lượt ngả theo cộng sản và chịu sự chỉ huy của cộng sản.
Ở miền Trung có Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Mai Văn Lễ, Cao Huy Thuần, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường mà mức độ ngả theo cộng sản cũng khác nhau. Có theo đậm, có theo một cách chừng mực, nửa chân trong chân ngoài.
Loại đông nhất chiếm đa số chỉ lên tiếng phản kháng- trí thức thiên tả- mà không hẳn ngả theo cộng sản.
Có thể gọi chung là trí thức sa lông chỉ nói mà không dám làm, chỉ viết mà không thực sự dấn thân nhập cuộc. Họ là những trí thức, giáo sư, nhà văn, có cả sĩ quan trong quân đội VNCH. Đứng đầu là Nguyễn Văn Trung rồi kéo theo Trần Bích Lan tức Nguyên sa, Nguyễn Khắc Ngữ, Diễm Châu, Trịnh Viết Đức, Nguyễn Đông Ngạc, Thảo Trường, Nguyễn Tử Lộc, Đỗ Long Vân, Thái Lãng, Thế Uyên. Và nhiều tên tuổi khác viết cho Đất nước, Hành Trình như Nguyễn Quốc Thái, Du Tử Lê, Bùi Khải Nguyên,Trần Văn Toàn. Huỳnh Kim Khánh, Bùi Tiến, Sầm Thương, Thế Phong. Nguyễn Tử Lộc, Nguyễn Tử Quý, Ngô Thế Vinh, Trần Tuấn Nhậm, Võ Hồng Ngự, Nguyễn Quốc Thái, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Ngọc Lan, Cao Thanh Tùng, Chu Vương Miện, Hương Khê, Thái Lãng, Luân Hoán, Trịnh Viết Đức
Mặc dầu viết cho Hành Trình, Đất Nước hay Trình Bảy, mặc dầu bầy tỏ thái độ băn khoăn có thể bất mãn, họ vẫn có tư thế độc lập.
Nhóm Hành Trình không phải đơn độc. Bên cạnh đó còn có nhiểu nhóm khác như Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, Phong trào Dân Tộc Tự Quyết, Ủy Ban Vận động Hòa Bình, Phong trào Bảo vệ Hòa Bình, Hạnh Phúc dân tộc và cuối cùng là Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc.
Những phong trào này- dù chỉ là những tên gọi khác nhau- có dấu hiệu cho người ta ngờ vực là con bài của cộng sản như trường hợp Thích Quảng Liên.
Bên cạnh đó còn có những phong trào văn nghệ phản kháng, trở về nguồn như Phong trào Du Ca, Tâm Ca, Da vàng ca.. Những phong trào văn nghệ này thực chất có thể chỉ là những khát vọng Tuổi trẻ và không có những vận động chính trị hay sự xâm nhập của cộng sản.. Và vì thế, nó được nhiều giới trẻ hưởng ứng tham gia.
Cho nên việc phân định ranh giới rõ rệt các nhóm trí thức khuynh tả không phải là một điều dễ dàng gì.
Nhưng nhìn chung, nhóm Hành Trình được coi là nhóm khuynh tả tiêu biểu ..Đa số những người trong nhóm đã ở tuổi trưởng thành, có sự nghiệp vững vàng và họ tham gia với tính cách tự nguyện.
Sợi dây nối kết họ lại với nhau chỉ vì họ có một số quan điểm khá tương đồng có thể gói trọn trong một số ý tưởng nòng cốt sau đây :
- Chống mọi hình thức can thiệp của Mỹ vào miền Nam. Điều mà có thể thời chính ông Diệm, ông Nhu cũng chủ trương như thế.
- Chống lại cuộc chiến tranh đang diễn ra mà theo họ, đó chỉ là một thứ chiến tranh ủy nhiệm.
- Gián tiếp chống lại chính quyền miền Nam mà theo họ chỉ là tay sai bản xứ do Mỹ chỉ đạo.
- Cổ võ cho một quan điểm Cách Mạng Xã Hội không cộng sản được gọi là đường lối thứ ba.
Phải nhìn nhận rằng đa số thành viên chính của tờ Hành Trình đểu là người công giáo, nhưng với chủ điểm và đường lối của họ đã tách rời khỏi đường lối chung của Hội đồng Giám Mục Việt Nam cũng như giáo dân Việt Nam.
Nhất là nó đi ngược với đa số người công giáo nói chung. Trên căn bản, những người công giáo đa số thầm lặng này vẫn khẳng định vị thế đối kháng đến một mất một còn với cộng sản..
Nội dung các bài viết nhất là nhóm Đất Nước, Hành Trình thường bầy tỏ nỗi băn khoăn, trăn trở về thời cuộc, về hiện tình đất nước và muốn tìm ra những giải pháp và hướng đi cho mình.. Đó là các bài viết mang tựa đề như: Cùng nhau cảm thức về một nỗi buồn nhược tiểu, Cách mạng của người nghèo,, Độc tài hay dân chủ, Tìm một hướng đi cụ thể cho cuộc cách mạng Việt Nam, Cách mạng và dân chủ,
Nhưng chỉ đến đây là điểm chung, điểm dừng lại, điểm rẽ ngoặc giữa Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung..
Họ khác nhau vì thái độ chọn lựa dấn thân, hành động hay không hành động.
Lý Chánh Trung cũng như Nguyễn Văn Trung và có thể nhiều người khác như giáo sư Châu Tâm Luân, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, luật sư Trần Ngọc Liễng đều nhận được những bức thư lấy danh nghĩa sinh viên học trò. Trong đó, đại diện cộng sản tìm cách thúc dục đặt vấn đề tranh đấu, dấn thân cụ thể thay vì chỉ sống trong môi trường đại học viết bài.
Người thảo ra những bức thư ấy có thể là Trần Bạch Đằng, Phạm Chánh Trực hay Năm Nghị. Sau đó được giao những sinh viên như Trần Thị Lan tiếp xúc các vị trên..
Nhiều người trong số đó đã bị mắc bãy và chính họ – như trường hợp Lý Chánh Trung đã thú nhận..
Lý Chánh Trung viết:
Chính anh em sinh viên đã kéo tôi ra khỏi tình trạng bất động ấy bằng lời mời gọi của họ. Sự dũng cảm ấy đập vào tim óc mọi người và bắt mọi người phải suy nghĩ..
Nhất là trong bài viết: Nói chuyện với người học trò, ông ghi lại như sau:
Theo con nghĩ, cần phải có một hành động cụ thể, kịp thời, không trí thức và hữu hiệu. Hành động cụ thể, kẻ cạn suy xét mới không ngộ nhận hành vi của thầy là một phản ứng nhát thời của lương tâm trí thức, hay một sự hiện diện tượng trưng, coi cho được với lịch sử..
Thầy chỉ suy tư về những nỗi đau khổ, những niềm tuyệt vọng của kẻ khác, mà thầy chưa nằm trong những nỗi đau khổ, những niềm tuyệt vọng đó. Thế đứng của thầy là ở ngoài, ở trên.
Thầy cũng đã suy tư về một cuộc cách mạng theo phương cách nào đó cho một lý tưởng công bằng xã hội mà em biết rằng thầy chỉ đứng ngoải cuộc cách mạng lý tưởng đó thôi..[17]
Đây là những lời lẽ khích động, đánh đòn tâm não, đánh vào tự ái của người trí thức.. Lý Chánh Trung đã bị kích động và làm theo sự kích động ấy sau nhiều trăn trở..
Và cũng kể từ đây có một Lý Chánh Trung đã lột xác, đã dấn thân, nhập cuộc.
Và cũng kể từ đây chia ngã rẽ với những người như Nguyễn Văn Truug. Một bên rời bỏ tháp ngà suy tưởng, một bên tiếp tục con đường suy tư- nhưng ngại dấn thân, ngại nhập cuộc..
Và dần dần kể từ năm 1968, Lý Chánh Trung đã có thể tự coi mình là người của Đảng- đã tiếp xúc với người của Mặt trận- đã được đưa lên vùng mật khu- đã nhận chỉ thị, đã viết theo đường lối của Mặt trận..
Thay vì được điều động vào mật khu, Lý Chánh Trung được khuyến cáo ở lại thành phố, quấy phá bằng ngòi bút, có mặt trong các cuộc biểu tình, xuống đường của giới sinh viên..
Lý Chánh Trung và Lý Lan Phương (Con gái Lý Chánh Đức)
Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thời bấy giờ cùng lúc phải đối đầu với hai mặt trận.
Ngoài Sài gòn, cuộc chiến được giải quyết bằng bom đạn, bằng những trận mưa pháo ban đêm vọng về thành phố ngủ không yên giấc vì những tiếng ì ầm. Binh lính ngày đêm phải đối đâu trực diện với cái chết từng ngày, từng giờ.
Trong thành phố là một trận chiến bằng hàng rào kẽm gai, bằng lưu đạn cay và những biểu ngữ, hô hào đủ kiểu..
Và Lý Chánh Trung đứng bên ngoài cổ võ:
“Khóc đi con, khóc cho quê hương của con đã rách nát như áo ăn mày, cho những cánh đồng loang lổ vỉ bom đan, xơ xác vì thuốc khai quang, cho những thành phố tanh ôi mùi tinh trùng Mỹ, cứt đái Mỹ, rác rến Mỹ, đô la Mỹ..
Khóc đi con, khóc cho các anh các chị con đang bị giam cầm, đánh đập mà không ai biết vì tội gì, và sắp được đưa ra xử trước một tòa án mà không ai tin”.[18]
Có nhiều cách móc nối. Và cộng sản đã móc nối được nhiều người, trên dưới cả trăm người.
Tôi không biết ai đã móc nối Lý Chánh Trung mà cứ như những điều ông trình bày thì có thể là học trò. Trường họp Nguyễn Trọng Văn cũng vậy. Riêng Nguyễn Văn Trung thì có ông Thanh Nghị (chồng bà Tâm Vấn) rủ Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Đỉnh Đầu, Nguyễn Ngọc Lan vào khu.
Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Đình Đầu từ chối tham gia vào sinh hoạt chính trị. Chỉ có Nguyễn Ngọc Lan nhận lời và đã vào khu.. Những việc móc nối này, theo tôi, ngành mật vụ biết hết, nhưng để yên, chỉ theo dõi..
Năm 1968- Tết Mậu Thân là thời điểm quyết dịnh dứt khoát ai theo, ai không theo cộng sản. Có một lằn ranh rõ rệt, lộ mặt và nhiều khi không còn dấu diếm nữa
Như Lý Chánh Trung tự thú nhận:
Trong những năm đó, nhất là từ sau tết Mạu Thân, tôi đã tham gia hầu hết các phong trào đấu tranh công khai tại thành phố.[19]
Ông xác định rõ hơn:
Nhưng tôi cũng phải vượt qua nhiều khó khăn trở ngại, và nếu không có sự mời mọc, lôi kéo của những người trẻ tuổi, thì rất có thể tôi đã không tham gia đến mức độ ấy. [20]
Nhưng những cái chung đó không đủ để nối kết họ làm một.. khi tình thế chuyển biến.. Nguyễn Văn Trung dừng lại ở bình diện nhận thức, phân tích, tra hỏi, bới tìm, chứng minh bằng lý luận. Lý Chánh Trung viết ít chú ý đến mặt lý luận với nhiều độ cảm tính, viết bằng cả tâm tình, khơi dậy, đánh động và nhất là nhập cuộc, tham gia gia vào các cuộc biểu tình, xuống đường.. và ở cuối đường gia nhập tổ chức cộng sản..[21]
Rồi đến 1975 thì kết quả một người bị đi tù, một người được trọng vọng, cất nhắc..Nhưng số phận sau cùng dành cho họ ra sao. Đó mới là điều quan trọng.
Sắc thái chung của những trí thức thiên tả
Đó là một sinh hoạt đứng bên lề trái, đứng để phê phán, đứng để chống lại cái chính thống. Đó là thái độ bất mãn thường trực với cái đang có, cái trật tự hiện có còn dở dang, chưa hoàn chỉnh,-cái chính quyền hiện tại-. Chống bất kể là ai, bất kể là đệ nhất hay đệ nhị cộng hòa, Chống là chống. Hay cũng chống, dở cũng chống, chống một phía.
Người cánh tả thường chỉ nhìn thấy những kẽ hở, những điều xấu, điều tiêu cực-quên đi những điều tốt đẹp- đứng về phía thiểu số hay đứng về phía kẻ bị coi là bị áp bức, người nghèo. Hoặc rộng lớn hơn họ đứng lên bênh vực các nước nghèo, nước bị trị, kém mở mang..
Sau này tạm đủ lớn mạnh, ông đã tự nhận mình là thuộc thành phần lực lượng thứ ba.(Troisième Force). Có nghĩa không phải là quốc gia chống Cộng mà cũng không hẳn là cộng sản. Nhiều chỗ trong những bài báo trên Hành Trình, Đất Nước, Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung gọi đó là một thứ Xã Hội chủ nghĩa không cộng sản..
Trong tình thế đất nước chúng ta, lồi hô hào xuông một chủ nghĩa xã hội không cộng sản là một ảo tưởng. Đó là một ước mơ và một đề nghị lơ lửng và còn tin rằng có thể hòa hợp, hòa giải với cộng sản.
Chính Lý Chánh Trung sau này cũng phải nhìn nhận rằng:
‘ Lực lượng hay Thành phần thứ ba chỉ là một khát vọng hơn là một thực lực thực tế. Tổ chức vỏn vẹn có vài trăm người. Nhóm người đó mở ra mọi phía và đón nhận nhiều ảnh hưởng. Vì thế họ không có một ý thức hệ chính xác nào”.[22]
Chính vì mấy chữ này mà ông bị Nguyễn Trọng Văn viết tham luận tố giác ông và Nguyễn Văn Trung sau 1975. Nguyễn Trọng Văn đóng vai một kẻ đấu tố- một phiên bản của những cuộc đấu tố trong cải cách ruộng đất. Hay là phiên bản của vụ Nhân Văn Giai Phẩm?
Hiện tượng tố giác này, sau 20 năm sống ở miền Nam, tôi chưa hề bao giờ thấy xẩy ra. Tại sao Nguyễn Trọng Văn vốn cũng là một trí thức miền Nam có hạng, trở thành một tên chỉ điểm, đi tố giác đàn anh. Kẻ đi tố cáo đã tự làm mất bản thân mình trở thành tên đao phủ như Tố Hữu?
Trước những lời tố cáo như thế, Lý Chánh Trung giữ thái độ im lặng.
Trước 1975, ông nghênh ngang ngậm tẩu, đầy phong cách trí thức, đầy tự tin, tham dự các cuộc mít tinh biểu tỉnh như một thứ lãnh tụ sinh viên.
Sau 1975, ông học làm thinh.
Và để gỡ tội với chế độ, ông đã điều chỉnh cách nhìn, quay 180 độ, đổi giọng. và đây mới là điều đáng trách, đây mới là điều tủi hổ cho trí thức miền Nam.
Thà chạy mẹ ra nước ngoài cho yên. Thà buông súng đầu hàng
Hay thà ngồi trong trại Cải Tạo nó bảo trắng thì mình bảo trắng, nó bảo đen thì mình bảo đen..
Ở đây có ai bắt ông chịu nhục phải viết như thế!!
Trong một bài phỏng vấn của nhà báo Alain Ruscio, ông nói:
Đã từ lâu, tôi vẫn mơ một cuộc cách mạng khoan hòa, đúng mực và khoan nhượng… Chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã đáp đúng nguyện vọng của tôi.. Chúng tôi đã làm mọi cách để xã hội mới được hình thành với ít đau đớn bao nhiêu hay bấy nhiêu… Ảnh hưởng của Hồ Chí Minh về điều này là một yếu tố quyết định.[23]
Ở chỗ bạn bè, chỗ những người quốc gia, ông lý luận rất khéo léo để che đậy, rất thuyết phục.
Tôi chỉ đồng hành với họ (cộng sản), nhưng không là đồng chí.
Một lối nói ngụy biện chỉ những tay biện luận triết học có tay nghề mới nói được như thế.
Bởi vì cũng trong một bài trả lời phỏng vấn Alain Ruscio, ông được coi là dại diện cho thành phần thứ ba, ông lại nói khác. Ông cho rằng:
Người ta không thể nào là người yêu nước, yêu hòa bình, hòa hợp dân tộc mà lại đồng thời có thể chống lại cộng sản.[24]
Ở đây lại là một lối ngụy biện cao đồng hóa tình tự yêu nước và yêu Đảng vào làm một.
Điều này rõ ràng ông học được- không phải từ trường đại học Louvain- mà từ trường Đảng, trường dạy ngụy biện gian dối có đẳng cấp nhất mà tôi thường được nghe từ những nhà trí thức đủ loại ở Hà Nội.
Tôi có thể bỏ qua cho ông tất cả những gì ông đã làm, đã nói trước 1975-. Nhưng thật là khó cho tôi không thể dung nhượng được những điều ông nói và làm sau 1975..
Nói cho cùng, cả Lý Chánh Trung, cả Nguyễn Trọng Văn tiêu biểu cho một bi kịch của trí thức miền Nam sau 1975.
Có lẽ lời nhận đinh của Nguyễn Văn Trung đáng nhẽ trước tiên phải được dành ưu tiên cho Lý Chánh Trung- người bạn đồng hành của ông- mới phải:
Tham gia cách mạng là tham gia vào quá trình tự tiêu diệt chính mình.
Ông chọn một thế đứng chênh vênh như thế ở miền Nam trước 1975 cũng có phần nào hiểu được, nhưng nhiều phần đó chỉ là một ảo tưởng, lãng mạn chính trị. Nhiều phần là không thực tế. Nếu không nói là ngây thơ, khờ khạo vì không hiểu được thực tại chính trị.
Ngay từ thời sinh viên khi còn học triết học ở Louvain vào thập niên 1950 cùng với nhiều sinh viên khác như Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm vv, ông đã ngả theo khuynh hướng triết học Mác Xít, chống Pháp.
Sự ngả theo như thế hầu như là một cái mốt của giới trí thức trẻ.
Phảỉ tả phái mới được.
Tả khuynh mới được coi là có đầu óc, trí thức. Nó chẳng khác gì cánh trí thức tả của Pháp như A. Camus, Simone de Beauvoir, J.P. Sartre, André Gide hay các nhà báo như Bernard B. Fall, J. Lacouture, Stanley Karnow, Alain Ruscio, David Halberstam, Oriana Fallaci vv..
Và nếu nói theo khoa học bây giờ, người ta tìm thấy trong đầu con người có những loại Genes đặc biệt như Gène de Dieu, có tên khoa học là VMT, gène về đồng tính vv . Người có gène tôn giáo này có những khuynh hướng thần tính, siêu nhiên khó mà cắt nghĩa được. Cái Gène tôn giáo xác định cái căn cước, cái thần linh ngự trị trong cuộc sống của một người.?.[25]
Nếu đã có những gènes về tôn giáo và đồng tính thì cũng có thể có những loại Gènes về chống đối, bất mãn và xung đột..Nếu thực sự cũng có những gènes như vậy thì có thể lý giải được nhiều điều về cá tính con người cũng như cách hành xử của những người tả phái.
Họ có cái gene bất mãn nên luôn ở thế đối đầu, chống đối.
Phải chăng Lý Chánh Trung về phạm vi tâm sinh lý có một não trạng bất mãn thường trực và điều đó làm nên cá tính, nhân cách của ông chăng?
Nhưng nói chung, trong số thành phần trí thức thiên tả ngả theo cộng sản thì theo tôi người tiêu biểu về mọi phương diện là Lý Chánh Trung…Tiêu biểu của ông có thể về mặt nhận thức, trí thức, về mặt dấn thân nhập cuộc, tiêu biểu cả về mặt thành thật hoặc không thành thật, tiêu biểu của việc đón chiều gió, tính cơ hội cũng có, khi nào cần phải lên tiếng và khi nào cần biết im lặng.
Có thể ông không phải là loại người quá khích, hung hăng sốc nổi. Trái lại điềm tĩnh và cân nhắc mỗi khi phát biểu, đôi khi dè dặt cẩn trọng, có tính toán, cân nhắc…
Vì ở thế đối lập, ông luôn tỏ ra thái độ từ bất mãn đến chống đối các chính thể từ Đệ Nhất sang Đệ Nhị Cộng Hòa.
Ông luôn có việc để làm, để chống đối mà không bao giờ sợ thất nghiệp.
Vậy mà ông đã thất nghiệp sau 1975, vì không có gì để chống đối nữa.
Chống độc tài, chống kỳ thị tôn giáo, chống gia đình trị, chống cá nhân ông Diệm, chống chiến tranh, chống Mỹ Ngụy, chống tham nhũng, chống cá nhân ông Thiệu như tay sai Mỹ.
Nhưng đó là thứ chống một phía.
Không bao giờ dám nhìn nhận sự thật phía cộng sản đang làm gì ?
Chống chán rồi đòi. Đòi tự do, tự do báo chí, đòi dân chủ, đòi thả tù nhân chính trị, đòi thả những sinh viên theo cộng cộng sản nằm vùng, ngay cả những đặc công cộng sản. đòi quyền cho phụ nữ..
Chống và đòi. Đó là hai công việc đi đôi với nhau của ông Lý Chánh Trung.
Lý Chánh Trung và nhóm Liên Trường[26]
Nhóm Liên Trường còn được gọi là nhóm Phục Hưng miền Nam. Rất có thể là do những người đứng ra khởi đầu như các ông Nguyễn Văn Lộc, Huỳnh Văn Đạo, Lý Quý Phát. Vả sau đó được sự hỗ trợ của các ông Phan Khắc Sửu, nhất là cụ Trần Văn Hương. Theo giáo sư Lưu Trung Khảo thì do gợi ý của tướng Mai Hữu Xuân với tướng Trần Văn Đôn như một điều chỉnh lại tình trạng lép vế của người miền Nam so với người Bắc.
Sự phục hưng miền Nam thật ra chỉ là đòi quyền lợi, đòi chia ghế, đòi chức vụ mà đăc biệt xảy ra dưới thời cụ Trần Văn Huong- đặc biệt trong ngành giáo dục.
Các trí thức trẻ trong nhóm Liên Trường coi cụ Trần Văn Hương như một mẫu người miền Nam trong sạch, đạo đức, không tỳ vết chính trị.
Họ đã ủng hộ cụ trong việc thành lập chính phủ và chỉ thực sự chán nản khi cụ Hương quyết định đứng chung liên danh với ông Nguyễn Văn Thiệu.
Vấn đề Liên Trường mặt trái của nó là vấn đề Nam-Bắc.
Mà tiền sử của nó có thể từ thời Đàng Trong và Đàng Ngoài, thời Trinh-Nguyễn..kéo dài gần ba thế kỷ.
Nó bắt đầu từ sự khoanh vùng địa lý, sở hữu đất đai và bảo vệ sở hữu đó nên phải đụng đến binh đao. Nhưng để biện minh cho một thứ chính nghĩa thì người ta phải vận dụng đến vấn đề lịch sử, luân lý và ngay cả một số huyền thoại, vấn đề chính tà để biện minh cho những tham vọng của cả hai phía.
Nhà Nguyễn thống nhất ngôi vua chưa đầy 60 năm chưa đủ thời gian để xóa cào bằng những ranh giới phân biệt địa lý chính trị lịch sử giữa hai miền.
Khi ngưới Pháp chiếm Nam Kỳ, họ đã lợi dụng lá bài Nam- Bắc và chỉ 40 chục năm sau, 1940, họ đã đào tạo được những thành phần tay sai bản xứ có trình độ chuyên môn cho một loại trí thức Nam Kỳ tự trị..Thật sự thành phần này chẳng những kỳ thị Nam-Bắc, còn phân biệt giai cấp giàu- nghèo, giai cấp thống trị- bị trị như một thứ người ngoại quốc trên chính quê hương mình.
Khi người Pháp ra đi thì không có nghĩa là ảnh hưởng văn hóa Pháp không còn nữa. Nó tạo ra một tồn tích mà nay ta gọi là hiện tượng hậu thuộc địa.
Cái chết của Thủ tướng Thinh coi như một lời cảnh cáo cho những ai còn nuối tiếc nó..
Sau 1955, tưởng như vấn đề kỳ thị Nam- Bắc nay nó đã thuộc về lịch sử rồi.
Nhưng cuộc di cư 1955 một cách gián tiếp như một cú sốc về văn hóa, xã hội..Cú sốc ấy hiểu được và không tránh khỏi được những đụng chạm phải có..
Ông Diệm có thể là người đã dẹp tan và giải mã được những đợt sóng ngầm ấy.
Sau 1963- một thời kỳ nhố nhăng, đầy xáo trộn đã tạo dịp cho những cơ muu chính trị nhó đầu lên.
Cái nhen nhúm ấy thật sự chỉ nhằm một thế đứng chính trị chẳng khác gi cái thế đứng dựa vào các tôn giáo lớn như Phật giáo-công giáo.
Người làm chính trị muốncó cái thế thì phải đi qua cổng nhà chùa hoặc cổng nhà thờ hoặc tính địa phương..
Nhiều dân biểu đắc cử vì dựa vào cái thế địa phương của mình.
Lý Chánh Trung có mặt trong nhóm Liên Trường và được giữ chức Đổng lý văn Phòng bộ giáo dục.. Công việc của ông là dọn dẹp một số chức vụ chỉ huy trong ngành giáo dục và Vụ Học Đường Mới. Việc làm này hết sức đáng trách như những việc sau đây:
Thuyên chuyển giáo sư Đàm Xuân Thiều (gốc Bắc) vốn là một nhà giáo gương mẫu, thanh liêm và đạo đức từ Giám Đốc Nha Trung Học đầy lên Ban Mê Thuột.
Ông Đặng Trần Thường, cũng bị mất chức giám đốc Nha khảo thí cũng bị đầy lên cao nguyên
Giáo sư Trần Ngọc Ninh nói với tôi rằng chính ông là người đề ra Chương trình Học Đường Mới, có tên là CPS nhằm đưa giới trẻ vào các sinh hoạt ngoài phạm vi nhà trường. Có khoảng 30 gíáo sư nằm trong chương trình này. Ông đang đi dự một Hội Nghị Quốc tế về Giáo dục do Unesco tổ chức tại Băng Cốc mà lần đầu tiên Nga tham dự. Khi về đến phi trường Tân Sơn Nhất- do áp lực của nhóm Liên Trường áp lực ông Nguyễn Cao Kỳ- buộc giáo sư Trần Ngọc Ninh phải từ chức. Họ đã thay thế Tổng trưởng giáo dục bằng một người khác là ông Nguyễn Văn Trường. Ông Trần Ngọc Ninh sau đó lẳng lặng rút lui. Và những người thay thế là Nguyễn Văn Trường, Lý Chánh Trung đã xóa sạch toàn bộ các chương trình ấy.
Hiệu trưởng các trường trung học gốc Bắc như Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục bị thay thế thế bằng người miền Nam.. Trường hợp ông Lâm Phi Điểu- một người bạn tâm giao của ông Võ Long Triều được điều về làm Hiệu trưởng Hồ Ngọc Cẩn.. Chẳng may ông này bị tai biến mạch máu não phải ngồi xe lăn. Mặc dầu vậy, ông vẫn giữ chức Hiệu trưởng nên các giấy tờ công văn, tùy phái phải đến nhà ông để ông duyệt xét ký.
Một số hơn 20 giáo sư trung học nằm trong chương trình Học Đường Mới bị trả về nhiệm sở cũ..như các quý ông Lê Đình Điểu, Hà Tường Cát, Phạm Phú Minh, Đỗ Quý Toàn, Trần Đại Lộc, Phan Văn Phùng…
Chính tôi đã hỏi thẳng ông Lý Chánh Trung về việc thuyên chuyển này, nhưng ông chối quanh và không nhận trách nhiệm do chính tay ông ký Sự Vụ Lệnh thuyên chuyển
Nhìn lại việc này, tôi vẫn cảm thấy bực bội về thái độ và cách hành xử của giáo sư Lý Chánh Trung và bao nhiêu những cảm tình tốt dành cho ông từ những năm làm báo Sống Đạo tan ra mây khói..
Những việc tranh đấu, những điều ông viết trở thành những dấu hỏi về tính lương thiện trí thức có hay không?[27]
Từ đó nó cũng đặt câu hỏi phải chăng ông là người có tính xu thời, thứ chủ nghĩa cơ hội, gió chiều nào ngả theo chiều đó.Tôi thật sự không dám dấn sâu hơn những suy nghĩ của mình về vấn đề này..
Cũng may là bác sĩ Nguyễn Văn Thơ, một người cũng miền Nam- một tổng trưởng liêm chính- sau đó thay thế ông Nguyển Văn Trường đã không đồng ý các việc giáng chức, bổ nhiệm có tính cách trừng phạt ấy.
Lý Chánh Trung với các sinh viên tranh đấu theo cộng sản
Việc từ bỏ tháp ngà của một giáo sư đại học văn khoa cũng như một công chức cấp cao của ngành giáo dục và quyết định dấn thân sát cánh với nhóm sinh viên tranh đấu thân cộng sản là một bước ngoặt trong cuộc đời sinh hoạt chính trị của ông.. Những băn khoăn, thắc mắc của tôi là tại sao ông chọn lựa thái độ dấn thân ấy? Tôi đã thăm dò nơi một hai người bạn thân của ông..Nhưng kết quả không là bao nhiêu…
Tôi cũng không bằng lòng với những bài viết như thú nhận tại sao ông đã nhập cuộc và theo cộng sản vì lý tưởng cộng sản un đúc từ thời sinh viên, vì nghĩ rằng nó có tính cách trang điểm cho những việc làm của ông sau này.trước Đảng..Bài viết của ông nhan đề: Làm Và Tin viết như một thứ Trả Bài làm tôi nghi ngờ tính lương thiện trí thức ở trong đó, bởi vì nó được nhắc nhở đến ngay từ hồi còn sinh viên mà Lý Chánh Trung đã có niềm xác tín như thế với Đảng cộng sản
Ông đã viết như sau:
Lúc còn bên Pháp trong những năm 1950, tôi đã nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng trên toàn thế giới như nó đã thắng tại nước Nga, tại các nước Đông Âu và tại Trung Quốc, như nó đã thắng tại Việt Nam, không những vì đó là hướng đi của lịch sử mà còn vì đảng cộng sản là một tổ chức hữu hiệu nhất đã xuất hiện trong lịch sử từ trước đến nay. Riêng tại Việt Nam, hiệu năng ấy còn tăng lên gấp bội vì ở đây, Đảng cộng sản đã lãnh đạo từ đầu cuộc kháng chiến giành độc lập của dân tộc và đã thu hút được sự ủng hộ của mọi tầng lớp và mọi giới đồng bào.
Tuy không phải là người cộng sản, tôi thành thật mong muốn sự thắng lợi của chủ nghỉa cộng sản trên thế giới và tại Việt Nam, vì tôi chon rằng chỉ chủ nghĩa cộng sản mới tạo dựng được cái xã hội thật sự tự do, bình đẳng và huynh đệ mà tôi hằng mơ ước. Những tin tưởng hoàn toàn nơi thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản như tin một sự thật khoa học, bất kể những điều kiện khách quan có thể biến đổi ra sao, thì thú thật là tôi chưa tin nổi[28]
Tôi đi tìm một lối giải thích khác và tôi nghỉ là nó chính xác hơn..
Ông đã chạy theo những đám thanh niên thiên tả mà một số là cộng sản nằm vùng. Đặc biệt nhất là sinh viên Y khoa Huỳnh Tấn Mẫm.
Đối với tôi thì sinh viên này trước 1975 là thứ phá hoại- một thứ phá làng phá xóm do cộng sản giật giây.
Giá trị của anh ta là ở chỗ ấy.. Sau 1975, không dùng được vào việc gì cùng lắm dùng làm cảnh..
Từ đó đến nay, gần 40 năm, anh sinh viên nay mang thân phận dư thừa. Không có chỗ đứng.
Có dịp đọc lại hết những hoạt động của Thành Đoàn TNCS của thành phố Hồ Chí Minh mới chính thức được thành lập năm 1966, tôi thấy hết được bối cảnh chính trị miền Nam trong những năm tháng cuối cùng..
Chúng ta biết rằng có một cuộc chiến tranh trực diện, cuộc chiến tranh ở ngoài Sài gòn bằng bom đạn, bằng trực thăng, bằng đại bác 105 ly, bằng đô la để đổi lấy những xác chết- và cũng có một cuộc chiến bằng súng cối, bằng hầm chông, bằng ám sát, thủ tiêu và cuối cùng bằng xe tăng đại pháo với những xác người bị phơi thây bên bờ kinh, bờ rạch.
Nhưng có một cuộc chiến tranh thứ hai ngay giữa lòng Sài Gòn bằng biểu tình, tuyệt thực, xuống đường, bằng hô hào đả đảo, bằng lựu đạn cay và nước mắt và bằng những hàng rào kẽm gai
Cuộc chiến cân não này ít ai nói tới vì không thể đếm những xác người.
Nó cũng không có biên giơi rõ rệt, trộn lẫn Ta và Địch, vì Địch cũng có thể là ta.
Cuộc chiến trên đường phố ở Sài Gòn diễn ra ở hai mặt:
- Mặt nổi là những cuộc biểu dương lưc lượng của giới sinh viên học sinh như biểu tình, xuống đường, đòi cái này, cái kia, ngay cả việc đòi thả những cán bộ cộng sản như Vũ Hạnh, sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy. Lý Chánh Trung đã có mặt trong nhữ cuộc biểu dương này và ông đã viết như sau trong Một thời đạn bom, một thời Hòa Binh:
‘ Tôi đã đến đây tham dự buổi tuyệt thực của 20 giáo chức Đại, Trung và Tiểu học tại tỏa Viện trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, để yêu cầu nhà cầm quyền trả lại tự do cho các sinh viên, trong đó có anh Huỳnh Tấn Mẫm đã bị giam giữ trái phép đúng một tháng qua và đang tuyệt thực, tuyệt ẩm trong khám Chí Hòa. Trong lúc mấy anh em hát, tôi cảm động không dám nhìn lên, chỉ nhìn xuống..[29]
Thế nào là trái phép? Bắt giam một anh cộng sản nằm vùng là trái phép? Đã không ai đặt ra câu hỏi này cả..Và sau 1975, Đã bao nhiều người đã vào tù một cách oan khuất, đã có lần nào, Lý Chánh Trung dám lên tiếng một lần’?
- Mặt thứ hai của cuộc chiến tranh đang diễn ra tại thành phố Sài Gòn là công tác được chỉ huy của các đồng chí như Nguễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng, Phạm Phương Thảo với vô số tên tuổi như Nguyễn Đông Thức,Hồ Dũng, Anh Ngọc, Lê Văn Nuôi, Hàng Chức Nguyên, Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư. Phạm Chánh Trực.
Và với nhiều bí danh như Tám Lượng, Hai Nghị, Út Thu, Mười Hương, Ba Hoàng, Tư Kiên, Mười Hải, Mười Dũng,, Ba Liễu, Tư Thanhvv.. Đã có hằng trăm tên như thế.
Công việc của họ là ám sát các nhân vật có uy tín của miền Nam như giáo sư Nguyễn Văn Bông, ký giả Từ Chung, báo Chính Luận, chủ bút Chu Tử, hai giáo sư Y khoa là giáo sư Lê Minh Trí, giáo sư Trần Anh và sinh viên Lê khắc Sinh Nhật..
Những công tác của các tổ ám sát này sau được phép kể lại công khai trên báo chí như một thứ giải trí hay một thứ thành tích giết người đang được tự hào.
Sau nữa là việc đốt xe Mỹ xảy ra ở nhiều nơi..
Để hỗ trợ cho việc đốt xe Mỹ này, tờ Tin Sáng của nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung đưa ra một bản tin như sau :
Phong trảo đốt xe Mỹ càng ngày càng vang dội vả được mở rộng, thu hút được nhiều tần lớp nhân dân tham gia. Ở Thủ Đức, vào lúc 10 giờ sáng ngày 10 tháng19 năm 1971,đồng bào đã tự động phóng hỏa đốt một xe Đại Hàn. Hành động này, đồng bào Thủ Đức nói là hỗ trợ cho chiến dịch đốt xe Mỹ của Ủy Ban đòi Quyền sống đồng bào tổ chức nhằm trả thù cho đồng bào Bình Thạnh và các tỉnh miền Trung bị lính Đại Hàn giở trò man rợ’.[30]
Cũng tờ Tin Sáng số ra ngày 21 tháng 10 nam8n 1971 với hàng tít lớn :
Từ tờ mờ sáng 20-10, sinh viên học sinh mở cuộc săn đốt xe Mỹ trong khu vực tam giác sắt Trần Quốc Toản- Cao Thắng-Kiều Công Hai…
Việc đốt xe Mỹ này là do những tổ trinh sát thi hành. Tờ báo Tin Sang đã tuyên truyền bịp bợm đổ cho đồng bào một cách vô tội vạ.
Ngày nay, họ còn tỏ ra hãnh diện và công khai hóa những vụ ám sát này như một thứ thành tích đáng được biểu dương..
Một tờ báo như Tin Sáng thế mà không ai nghĩ đến việc đóng cửa và bỏ tù bọn họ.
Với hai mặt trận như thế mà chúng ta đành thua người cộng sản.
Linh mục Nguyễn Huy Lịch
Tôi muốn thêm về vụ linh mục này.
Gốc gác gia đình cha Lịch thuộc loại trí thức cấp tiến, thiên tả ở Hà Nội. Bố là luật sư , chống Pháp nên ngả theo phía bên kia. Sau khi cha Lịch thi đỗ tú tài có ngỏ ý xin đi tu và đã bị ông bố tức giận bợp tai vì muốn cha học làm luật sư. Rồi cuối cùng cũng chiều theo con. Cha Lịch sau đó sang Pháp du học.
Năm 1954, bố mẹ cha chọn ở lại Hà Nội cùng với một người em gái tên Khanh.
Năm 1955, thay vì về Hà Nội với gia đình, cha chọn vào miền Nam. Về làm Tuyên úy sinh viên công giáo Câu Lạc Bộ Phục Hưng, số 43 Nguyễn Thông. Nói đến cha Lịch, một số đông sinh viên công giào cũng như không công giáo đều có một thái độ trân trọng, kính mến cha vì tinh thần cởi mở và hòa hợp- không phân biệt tôn giáo- xu hướng chính trị. Danh sách khỏang 500 sinh viên đã từng ở đây xin kể một vài người :
Nguyễn Đức Quý, Hoàng Ngọc Tuệ, Bùi Thế Cần, Ngô Khắc Tỉnh, Đoàn Thanh Liêm, Bửu Sao, Trần Ngọc Báu, Tô Lai Chánh, Đặng Tiến, Cao Huy Thuần, Vĩnh Linh, Pham Đăng Long Cơ, Đỗ Phan Hạnh( Chủ tịch Hội cựu hoc sinh Chu Văn An)[33]
Nói chung, người ta nhận ra phong cách trí thức nơi cách diễn đạt- dù bằng những ngôn từ dễ hiểu- pha chút khôi hài tế nhị sự tôn trọng cá nhân cũng như sự tôn trọng ý kiến khác biệt, tạo được bầu khí ôn hòa chấp nhận người khác.
Phong cách đạo đức hẳn cũng có.
Tuy nhiên có thể cha thiếu một phong cách chính trị nào đó. Tôi rất không vui khi nhìn hình ảnh lm Nguyễn Huy Lịch đang leo cái thang để lên trần nhà để xem chỗ lm bề trên Trần Đình Thủ-một cụ già 80 tuổi đang ẩn nấp ở trên đó.
Cái hình ảnh ấy không đẹp tý nào cả. Nó tố cáo một sự hăng say quá mẫn của một linh mục.
Vai trò linh mục không ở chỗ ấy. Cũng chẳng phải vai trò như đứng về phía kẻ cầm quyền đi bắt một kẻ gian vốn là đồng đạo, vốn là người anh em của mình.
Hình ảnh linh mục Nguyễn Huy Lịch leo thang lên chỗ trú ẩn của cha Trần Đình Thủ mà nhiều người không mấy quan tâm, Nhưng nó lại bộc lộ rõ cái bản chất, cái hoạt cảnh trơ trẽn của đám linh mục trí thức tiến bộ thời ấy.
Nó cho người ta thấy rằng có một sự thỏa hiệp đồng lõa giữa những thành phần thiểu số tiến bộ trong công giáo với chính quyền cộng sản..
Trong khi đa số giáo dân, đa số linh mục tu sĩ sống thấm lặng, chịu đựng, giữ phẩm cách và không hùa theo đám giáo sĩ và trí thức tiến bộ mà cái hèn, cái thiển cận, cái óc cơ hội xu thời, cái theo đuôi kẻ mạnh, kẻ chiến thắng mà trước đây nhiều người vẫn coi là kẻ thù nguy hiểm nhất.
Họ trở cờ và họ muối mặt hãnh diện về sự trở cờ ấy.
Nói nặng thì họ là những kẻ phản bội. Thời xưa, chỉ có một Juda. Nay thì có khá nhiều. Juda Lý Chánh Trung, Juda Trương Bá Cầnnvv.. đếm không xuể..
Họ không khác gì những người đánh trống và thổi kèn cho chế độ mới.
Chúng ta cùng nhau đọc lại mấy tin tức thời ấy :
Tờ Sài Gòn Giả Phóng, số 117 đưa tin :
Đã phá vỡ một ổ phản cách mạng, đội lốt tôn giáo
Tờ Tin sáng của nhóm Ngô Công Đức- Hồ Ngọc Nhuận Lý Chánh Trung, số 161 thì kết án mạnh bạo hơn đã đưa tin:
Những bằng cớ tịch thu được của bọn phản cách mạng chứng tỏ bọn họ muốn phá bỏ những thành quả của nhân dân ta trong suốt 100 nay.
Để tỏ ra khách quan, chính quyền mới đã mời ba người đại diện Thiên Chúa giáo trong vụ vây bắt này là các ông : Huỳnh Hữu Đặng, Nguyễn Đình Đầu và lm Nguyễn Huy Lịch đến chứng kiến vụ vây bắt những người đang cố thủ trong nhà thờ.
Một lần nữa linh mục Nguyễn Huy Lịch và đám Tin Sáng với Ngô Công Đức Lý Chành Trung trở thành những kẻ tay sai, đồng lõa..
Riêng vụ án Vinh Sơn thì người ở ngoài giáo hội lại đề cập tới nhiều..
Mới đây nhất, Huy Đức trong Bên Thắng Cuộc có nhắc tóm tăt đến vụ Vinh Sơn như sau :
“Đêm 12 rạng sáng 13-2-1976, lực lượng an ninh thành phố bắt đầu tấn công nhà thờ Vinh Sơn, thu giữ các thiết bị phát thanh và in tiền giả. Hai linh mục cố thủ trong nhà thờ đã dùng súng và lựu đạn chống trả quyết liệt, bắn chết Nguyễn Văn Ràng, một cán bộ an ninh. Mãi tới gần sáng, lực lượng bao vây mới khống chế được nhà thờ, hai linh mục Nguyễn Hữu Nghị và Nguyễn Quang Minh cùng ba người khác bị bắt».
Huy Đức chỉ căn cứ vào tài liệu của chính quyền cộng sản, sự thực sự việc xảy ra như thế nào?
Những người bị bắt trong vụ Vinh Sơn như hai vị linh mục, nhất là Nguyễn Xuân Hùng tự Ali- Hùng bị giam chung với cánh nhà văn cũng bị giam tù thời đó.
Vì thế, có đến ba bài ký ức viết về anh lính Ali-Hùng như bà Nhã Ca. Nhất là bài viết của Nguyễn Thụy Long : Ký ức về tiếng hát người tử tù. . Và Duyên Anh, trong Nhà Tù, chương 18.
Xin ghi lại một trích đoạn của nhà văn Nguyễn Thụy Long, người chứng kiến những giờ phút chót của người tù tử tội Ali Hùng :
Những câu chuyện vặt trong phòng giam bỗng im bặt, khi tiếng nói thật lớn thật to ở phòng giam tử tội cuối hành lang cất lên :
Chào tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em còn ở lại. Tôi là Nguyễn Xuân Hùng, tự Ali Hùng, hai người bạn tôi, một là linh mục, một là chiến sĩ. Tôi là một người Việt Nam lai da đen, xứ Phi Châu Sénégalais, mẹ tôi là người Việt Nam, vậy tôi xin nhận nơi này làm quê hương, vì mẹ Việt Nam của tôi đã nuôi tôi khôn lớn và thành người. Trong phòng giam của tôi, vị linh mục đang quỳ dâng mình cho Chúa, người bạn chiến sĩ thì đang huấn nhục. Tôi có giọng khỏe, xin được hát thân tặng lại tất cả những anh em còn ở lại. Những bài hát thấm đượm tình quê hương của Phạm Duy mà tôi rất ngưỡng mộ.. : Chúng tôi đã mất Sài Gòn thật rồi..[34]
Chúng tôi lưu ý đến vụ án này là vì theo một nhân chứng rất quan trong là ông Trần Kim Định, bị án tù chung thân viết lại cho biêt:
Trên xe về trại, Ali Hùng nói với tôi:
« Em thật không ngờ ông cha Lịch lại nhẫn tâm làm chứng gian cho em. Từ việc bắn chết tên Rạng đến việc dùng loa phát thanh đề do Dũng làm..» Tòa án đã cố tìm chứng cớ để cho đủ bản án tử hình» ( Trần Kim Định, Hồi ký của Trung tá Trần Kim Định).
Phần tôi thì tin vào lời trối trăng của Ali Hùng. Linh mục thì không còn nữa
Phải chăng Lý Chánh Trung hoặc Nguyễn Đình Đầu có thể viết lại chuyện này?
(Tôi cũng mong nếu Trung Tá Trần Kim Định có đọc phần này thì xin cho tôi được có cơ hội đọc cuốn Hồi ký của ông).
Bộ trưởng Quốc Phòng Lê Đức Anh và con trai Lý Chánh Trung Lý Tiến Dũng: Nói láo
Nhắc đến các con ông, tôi nhớ là trong một lúc vui miệng, ông kể câu chuyện có lần ông Lê Đức Anh đến thăm một đon vị quân đội có nói gì đó đụng chạm đến cá nhân Lý Chánh Trung. Không ngờ con trai Lý Chánh Trung cũng có mặt bữa đó-. Lý Tiến Dũng, một đại úy mới về từ chiến trường Cam Pu Chia đã có mặt..
Muốn hiểu đầu đuôi thì cần phải nhắc lại, khi còn làm đại biệu Quốc Hội, Lý Chánh Trung có đề nghị phải cho báo chí tư nhân hoạt động..
Lời đề nghị đó đi quá xa và làm Nguyễn Văn Linh nổi giận. Bà Ngô Bá Thành- một thành viên của mặt trận củng hùa theo phê phán Lý Chánh Trung dữ dội..
Tiếp theo, Lý Chánh Trung nguyên là Phó chủ tịch Hội Trí thức yêu nước nên có đồng ý để cho tổ chức một buổi nói chuyện cho nhà văn Dương Thu Hương nói về cuốn tiểu thuyết đang gây tranh cãi hồi đó nhan đề : Những Thiên đường mù..
Rõ ràng là một cuốn sách chống Đảng .
Từ đó, Lý Chánh Trung không được Mặt trận Tổ Quốc đề cử vào danh sách đại biểu Quốc Hội nữa.
Dư luận còn cho rằng, lợi dụng tình hình ở Đông Âu sụp đổ, một số thành phần thuộc lực lượng thứ ba trước đây nay đang có mưu đồ diễn tiến Hòa Bình..
Lê Đức Anh lợi dụng dịp nảy đưa ra trường họp Lý Chánh Trung để mọi cấp cảnh giác.
Nhưng chẳng may có mặt con trai của ông ngồi đó. Nó tức khí đứng lên, đập bàn hét lớn:
" Nói láo», rồi vội dời khỏi Hội trường,. Sau này, anh ra khỏi quân đội và làm Tổng Biên Tập tờ Đại Đoàn kết.
Nó tức khí vì có kẻ đụng chạm đến bố nói- bất kể kẻ đó là ai-, nó buột miệng đứng lên chỉ thẳng mặt Lê Đức Anh: nói láo.
Câu chuyện rồi cũng xong, được Lê Đức Anh bỏ qua.
Giả dụ nếu không phải là con trai Lý Chánh Trung thì số phận viên đại úy quèn này sẽ ra sao?
Kể xong câu chuyện, Lý Chánh Trung cười một cách rất con người-một Lý Chánh Trung là Lý Chánh Trung
- Tôi cũng cười nói : Như thế là nó giống bố nó..Tôi cảm nhận và bắt gặp lại cái cười nửa miệng hơn 40 năm về trước của một trí thức miền Nam- với cá tính miền Nam- với phong cách trí thứ áo vét, măng tô- với cái miệng ngậm ống tẩu- đôi chút cao ngạo cùng nhau dạo buổi tối trên một con dốc của Viện Đại Học Đà Lạt.
ôi ngậm ngùi đã có một thời, cuộc sống của người miền Nam có thể sống an bình hạnh phúc như thế.
Con người trí thức xưa ấy và con người ngày hôm nay ngồi trước măt tôi, hình như không phải một người.
Sau vài giây phút thoải mái, Lý Chánh Trung trở lại con người thay vì khoác măng tô mang từ Bỉ về, ông khoác lại chiếc áo Mác Xít và nói :
- Này nói chơi thôi nhé, đừng kể cho ai nghe và về bên ấy nhớ đừng viết gì cả
Lý Chánh Trung bỏ đạo Chúa theo Mác
Điều đáng trách nhất nơi ông- mà điều gì khác cũng có thể xí xóa được- là khi cộng sản vào một thời gian, trước mặt nhiều người, ông tuyên bố công khai kể từ nay, ông bỏ đạo công giáo..Việc công khai hóa ấy ông muốn chứng tỏ cho mọi người biết mà không cần giấu diếm..
v
Việc công
bố này làm bỉ mặt nhiều người..Có ai bắt ông phải làm một điều như vậy?
Và được biết, chỉ đến khi con trai ông bị nạn. Ông than thở, cầu cứu khắp nơi và cuối cùng chẳng còn biết trông cậy vào ai, ông mới hồi tâm trở lại.
Tuy nhiên, theo tôi được biết thì hiện nay kể như cả gia đình ông đều ra khỏi công giáo..
Khi con trai ông qua đời, không thấy đả động gì đến các nghi thức công giáo cả?
Thôi thì cũng đành.
Sau 1975, ông đã sống khuôn mình vào môi trường CNXH vốn không dễ gì. Bởi vì, con người Xã Hội chủ nghĩa, ngoài sức khỏe thể xác và tinh thần còn có một thứ sức khỏe không thiếu được: Đó là Sức khỏe chính trị.
Mất cái sức khỏe này thì mất tất cả nên ai cũng phải lo giữ gìn.
Cho nên, người ta không lấy làm lạ gì khi cấp lãnh đạo Đảng vào thăm thành phố Saigòn năm 1975 đã chỉ đưa ra một nhận xét duy nhất cho một người- một nhận xét xem ra quá khổ về LCT: Lý Chánh Trung là một người cộng sản không có thẻ đảng..Lời khen này có thể là một lời khen thật- vì ông được đề nghị cho vô Quốc Hội mà cũng có thể hàm ý anh vừa vừa thôi nhé, đủ dose rồi..như một lời đe dọa bóng gió.
Lời nói bóng gió ấy chắc có kẻ sợ giữ mình.
Tôi đã không được biết phản ứng và câu trả lời của Lý Chánh Trung ra sao.
Chắc là im lặng.
Và được biết, chỉ đến khi con trai ông bị nạn. Ông than thở, cầu cứu khắp nơi và cuối cùng chẳng còn biết trông cậy vào ai, ông mới hồi tâm trở lại.
Tuy nhiên, theo tôi được biết thì hiện nay kể như cả gia đình ông đều ra khỏi công giáo..
Khi con trai ông qua đời, không thấy đả động gì đến các nghi thức công giáo cả?
Thôi thì cũng đành.
Sau 1975, ông đã sống khuôn mình vào môi trường CNXH vốn không dễ gì. Bởi vì, con người Xã Hội chủ nghĩa, ngoài sức khỏe thể xác và tinh thần còn có một thứ sức khỏe không thiếu được: Đó là Sức khỏe chính trị.
Mất cái sức khỏe này thì mất tất cả nên ai cũng phải lo giữ gìn.
Cho nên, người ta không lấy làm lạ gì khi cấp lãnh đạo Đảng vào thăm thành phố Saigòn năm 1975 đã chỉ đưa ra một nhận xét duy nhất cho một người- một nhận xét xem ra quá khổ về LCT: Lý Chánh Trung là một người cộng sản không có thẻ đảng..Lời khen này có thể là một lời khen thật- vì ông được đề nghị cho vô Quốc Hội mà cũng có thể hàm ý anh vừa vừa thôi nhé, đủ dose rồi..như một lời đe dọa bóng gió.
Lời nói bóng gió ấy chắc có kẻ sợ giữ mình.
Tôi đã không được biết phản ứng và câu trả lời của Lý Chánh Trung ra sao.
Chắc là im lặng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét