Những sự thật cần phải biết - (Phần 30) - Bằng chứng bán nước toàn diện của cộng sản Việt Nam
I. Những bằng chứng thực tế:
1. Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh:
Trong chuỗi dài hành trình bán nước của mình thì cộng sản Việt Nam đã
thể hiện ra bên ngoài bằng hành động có chứng cớ đầu tiên phải nói đến
đó chính là công hàm 1958. Xin được tóm tắt lại một số ý chính của công
hàm này (Có thể xem đầy đủ tại:
“Những sự thật không thể chối bỏ”- phần 2 và “Những sự thật cần phải biết” - phần 18)
a. Tuyên bố của phía Trung cộng về chủ quyền ở HS-TS của VN:
Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung cộng mà đại diện là thủ tướng
Chu Ân Lai tuyên bố về chủ quyền hải đảo của Trung cộng. Tuyên bố này
được thông qua trong kỳ họp thứ 100 của Ban Thường Trực Quốc Hội Nhân
Dân. Bạn đọc có thể tìm hiểu tại links sau: lunwen2.com/New-190.html
(Những links cũ trong “Những sự thật không thể chối bỏ” - phần 2 đã bị
xóa). Nội dung của tuyên bố trên của Trung cộng được dịch ra tiếng Việt
như sau:
b. Trước hết là bản dịch của dịch giả Trần Đồng Đức:
Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải ngày 4 tháng 9 năm 1958
Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc (Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa).
Đại biểu ủy viên thường vụ đại hội nhân dân toàn quốc liên quan việc
phê chuẩn quyết nghị công bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân
dân Trung Hoa.
(Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua)
Quyết nghị
Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội ủy viên thường vụ đại biểu nhân dân
toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua quyết định phê chuẩn về tuyên bố
lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Đính kèm: Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải
Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố:
* Một: Lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý.
Quy định này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung
Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với
Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế,
những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa
(Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì
thuộc về những hải đảo của Trung Quốc.
* Hai: Lãnh hải của Trung Quốc đại lục và duyên hải của các đảo được
tính theo đường thẳng nối liền những điểm mốc ven bờ làm đường biên cơ
sở, thủy vực từ đường biên cơ sở này hướng ra ngoài 12 hải lý là lãnh
hải của Trung Quốc. Phần nước thuộc đường biên cơ sở này hướng vào bên
trong, bao gồm vịnh Bột Hải, phần trong hải vực Quỳnh Châu, đều là phần
nội hải của Trung Quốc. Các đảo thuộc đường biên cơ sở này hướng vào
trong, bao gồm đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, đảo Mã Tổ, đảo Bạch Khuyển,
đảo Điểu Khưu, đảo Kim Môn lớn nhỏ, đảo Nhị Đảm, đảo Đông Định đều thuộc
về các đảo thuộc nội hải của Trung Quốc.
* Ba: Tất cả phi cơ và thuyền bè quân dụng của ngoại quốc, chưa được
chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho phép, không được tiến
nhập vào lãnh hải vào không gian trên lãnh hải. Bất cứ tàu bè ngoại quốc
nào vận hành tại lãnh hải của Trung quốc, phải tôn trọng pháp lệnh hữu
quan của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
* Bốn: Dựa trên nguyên tắc quy định 2, 3 áp dụng cho cả Đài Loan cùng
các hòn đảo xung quanh, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo
Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa
(Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc. Đài Loan
và Bành Hồ địa khu hiện nay đang bị Mỹ dùng vũ lực xâm chiếm. Đây là
hành vi phi pháp xâm phạm chủ quyền và sự toàn vẹn của lãnh thổ nước
cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và Bành Hồ đang chờ đợi để thu
hồi, chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa sử dụng tất cả những
phương pháp thích đáng tại một thời điểm thích đáng để thu phục những
khu vực này, đây là chuyện nội bộ của Trung Quốc, không cho phép ngoại
quốc can thiệp.
(Chú ý ở đây: Tây Sa và Nam Sa là cách gọi của Trung Cộng về HS-TS của Việt Nam)
Tuyên bố của Trung cộng
c. Bản dịch của báo Đất Việt (Cộng sản Việt Nam):
Nội dung bản dịch này là chính xác bản thân chúng ta có thể kiểm chứng.
Tôi xin nêu ra đây một minh chứng bản dịch của Trần Đông Đức là chính
xác vì vấn đề chính trong tuyên bố Trung cộng tuyên bố về chủ quyền
HS-TS đã được tờ Đất Việt (Báo của đảng cộng sản Việt Nam công nhận).
Đây là links của bài báo đó trên tờ Báo Đất Việt (Chi nhánh của BQP cộng
sản): baodatviet.vn/quoc-phong/201107/Su-that-ve-cong-ham-cua-Thu-tuong-Pham-Van-dong-2256218/
Trong bài viết của báo Đất Việt có đoạn: Theo lý giải của Trung Quốc,
ngày 4/9/1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố với
quốc tế quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ
đất liền của Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm cả quần đảo Tây
Sa và Nam Sa (tức quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).
Như vậy: Trung cộng rõ ràng đã tuyên bố HS-TS là của họ trong tuyên bố
4/9/1958 của Chu Ân Lai. Cả dư luận lẫn đảng cộng sản Trung quốc, cộng
sản Việt Nam công nhận.
d. Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng:
Ngay sau khi tuyên bố của Trung cộng về việc HS-TS là của họ thì Phạm
Văn Đồng lúc đó là thủ tướng Việt Nam Dân Chủ cộng hòa (VNDCCH) tiến
hành việc đưa ra công hàm ký ngày 14/9/1958. Công hàm này như sau:
Công hàm này ngoài ra thời điểm đó còn được các tờ báo Nhân dân thời
điểm đó đưa tin (Báo nhân dân là cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản
Việt Nam). Đây là hình ảnh của Báo nhân dân đã đưa tin về sự kiện này:
Và ngay sau đó thì sáng ngày 21.9.1958, Nguyễn Khang, Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Trung cộng, đã gặp Cơ Bàng-phi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đã chuyển bức công hàm của Phạm Văn Đồng đến Chu Ân Lai.
Và ngay sau đó thì sáng ngày 21.9.1958, Nguyễn Khang, Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Trung cộng, đã gặp Cơ Bàng-phi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đã chuyển bức công hàm của Phạm Văn Đồng đến Chu Ân Lai.
Trước đó, năm 1956, Ung Văn Khiêm, nhân tiếp phái đoàn ngoại giao Trung
cộng, Thứ Trưởng bộ Ngoại Giao có tuyên bố với Lý Chí Dân (Li Zhimin),
tham tán sứ quán Trung cộng tại Việt Nam: “chiếu theo tài liệu Việt Nam thì HS và TS thuộc về Trung Quốc”.
Lê Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào: “Theo sử liệu VN thì HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống”. Sự việc này tạp chí Beijing Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài "Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa".
Sau này, khi trả lời Xuân Hồng BBC thì bà Bảy Vân vợ Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Việt Nam Lê Duẩn nói: "Phạm Văn Đồng có ký văn bản: Ngụy nó đóng ở ngoài đó. Cho nên giao cho TQ quản lý Hoàng Sa... Phạm Văn Đồng có ký tên..". Điều này càng xác nhận cho việc bán nước của Phạm Văn Đồng là không thể chối cãi. Bạn đọc có thể xem clips phỏng vấn tại: youtube.com/watch?v=z8jX8YrRiG4
Trong cuộc phỏng vấn GS Hà Văn Thịnh - giảng dạy môn lịch sử tại trường Đại học Huế của RFA có nói: "Hồi
đó tôi học năm thứ nhất Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Nói thực là ông
Hoàng Tùng khi đó, tôi không nhớ rõ thầy giới thiệu như thế nào, nhưng
mà thầy giới thiệu là các em hôm nay - 180 sinh viên Khoa Sử - Đại Học
Tổng Hợp Hà Nội nghe ông Hoàng Tùng - Ủy viên Trung Ương đảng, Tổng biên
tập báo Nhân Dân, hay là Ban tư tưởng Trung ương gì đó, chức vụ tôi
không nhớ, nhưng mà ông Hoàng Tùng nói chuyện về lịch sử thì ông có nói
chuyện Hoàng Sa. Ông nói nguyên văn thế này: "Vì ta bận đánh Mỹ, không
có thời gian và chưa đủ khả năng để giải phóng Hoàng Sa nên nhờ bạn
Trung Quốc giải phóng. Sau này mình thống nhất đất nước rồi phía bạn sẽ
trả cho mình.".
Hội nghị về COC - DOC tại Indonesia ngày 4/9/2010 với tính cách phi
chính phủ về vùng biển Nam Trung Hoa. Tại các buổi hội thảo lúc có lúc
không này, phía cộng sản Việt Nam một lần nữa lại thấy bối rối khi được
yêu cầu giải thích về sự im lặng của họ năm 1974, khi Trung Quốc nắm giữ
cái mà Việt Nam bây giờ tuyên bố là một phần của lãnh thổ họ. “Trong
thời gian này”, cộng sản Việt Nam nói, “có những tình trạng rắc rối
về chính trị và xã hội tại Việt Nam, cũng như trên thế giới, mà phía
Trung Quốc đã lợi dụng, theo từng bước một, để dùng biện pháp quân sự
chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa. Và Trung Quốc đã thu gọn toàn bộ Hoàng Sa
vào năm 1974.”.
Nguyễn Mạnh Cầm, nguyên Bộ Trưởng bộ Ngoại Giao, trong một cuộc họp báo tại Hà Nội ngày 2 tháng 12 năm 1992 nói như sau: "Các
nhà lãnh đạo của ta lúc trước xác nhận về Hoàng Sa và Trường Sa như vậy
là do theo hiệp định Genève năm 1954 về vấn đề Đông Dương thì tất cả
lãnh thổ từ vĩ tuyến thứ 17 trở vào Nam là thuộc chính quyền miền Nam,
kể cả hai quần đảo này."
Năm 1977, bản thân Phạm Văn Đồng giải thích quan điểm của ông ta về công hàm này một cách gượng gạo: "đó là thời chiến nên phải nói như vậy thôi".
2. Mất đất và biển khắp nơi:
Không chỉ mất Hoàng Sa - Trường Sa cho Trung cộng bằng công hàm bán nước
của Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh thì hiện trạng mất đất và mất biển
cũng diễn ra khắp nơi.
Thứ nhất, về mất biển: Ngày 25/12/200, Trần Đức Lương đến
Bắc Kinh cùng Giang Trạch Dân ký Hiệp Ước cắt 11.362 km2 trên vịnh Bắc
bộ cho Trung cộng, là hành động cắt biển bán cho Trung cộng để lấy
2.000.000.000 Usd, để về chia chác cho Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải... để
đổi lấy những cái gật của Khải, Kiệt v.v...
Sau vụ bán nước cho Trung Cộng, theo lời ông Hoàng Minh Chính cho biết
thì không ai biết được ai trong bộ chính trị đã ký tên trong vụ bán nước
này, Bộ chính trị cộng sản đã dấu nhẹm chuyện này và BÍ MẬT đã được BẬT
MÍ và sau đây là những diễn biến về cuộc BÁN NƯỚC:
1) Lê Khả Phiêu bị Trung cộng gài Mỹ Nhân Kế lấy cô Trương Mỹ Vân (Cheng
Mei Wang) lúc Lê Khả Phiêu sang thăm Trung Quốc năm 1988 và sinh được
một bé gái. Phiêu không đem con về vì sợ tai tiếng đưa đến nhiều lần
Trung Cộng gửi văn thư đòi lấn vùng biển vào tháng 1 năm 1999. Đồng thời
đòi đưa ra ánh sáng vụ nầy nếu Phiêu không hợp tác. Và buộc Lê Khả
Phiêu phải hạ bút ký bản hiến biển ngày 30 tháng 12 năm 1999.
2) Ngày 31 tháng 12 năm 1999 phái đoàn Trung Quốc cầm đầu do Tang
Jiaxuan và tình báo Trung cộng sang Việt Nam, họ gặp kín Lê Khả Phiêu
bàn thêm về vấn đề hiến đất.
3) Ngày 25 tháng 2 năm 2000, Lê Khả Phiêu phái Nguyễn Duy Niên sang
Trung cộng và Nguyễn Duy Niên cho biết Lê Khả Phiêu đã đồng ý việc hiến
thêm đất. Trung cộng nghe tin rất hoan hỉ mở tiệc chiêu đãi Nguyễn Duy
Niên một cách nồng nhiệt với nhiều mỹ nữ ở nhà khách Diao-yu-tai ăn nhậu
cùng Ngoại Trưởng Tang Jiaxuan.
4) Bộ Trưởng Trung cộng Tang Jiaxuan gửi thư kín nhắn tin muốn gặp Bộ
Trưởng cộng sản VN tại ThaiLand khi Tang Jiaxuan viếng thăm nước này.
Ngày 26 tháng 7 năm 2000. Nguyễn Duy Niên đáp chiếc Air Bus bay từ phi
trường Nội Bài vào lúc 6 giờ 47 sáng sang Thailand gặp Bộ Trưởng Ngoại
giao TC tại khách sạn Shangri-La Hotel Bankok phía sau phòng Ballroom 2.
Cuộc gặp rất ngắn ngủi. Tang giao cho Niên một chồng hồ sơ đòi cộng sản
Việt Nam hiến thêm đất, biển trong hồ sơ ghi rõ TQ đòi luôn 50/50 lãnh
hải vùng Vịnh Bắc Việt, đòi Việt Nam cắt 24,000 sq Km vùng biển cho TQ.
Ngày 28 tháng 7 bộ chính trị nhóm chóp bu họp kín.
5) Sau hai tháng họp kín và bàn bạc, Bộ Chính trị cộng sản VN cử Phan
Văn Khải qua gặp mặt Lý Bằng. Phan Văn Khải bay chuyến máy bay sớm nhất
rời Việt Nam ngày 26 tháng 9 năm 2000 qua Bắc Kinh và được xe Limo chở
từ phi trường Bắc Kinh về Quảng Trường Nhân Dân vào trưa hôm đó. Lý Bằng
cho Khải biết là hai tay Lê Khả Phiêu và Giang Trạch Dân đã gặp nhau 2
lần cho vụ hiến đất rồi.
Lý Bằng cho biết Nông Đức Mạnh phải được cử làm Tổng Bí Thư sau khi Lê
Khả Phiêu xuống, nếu không thì sẽ bị Trung cộng “đòi nợ cũ”, Khải trước
khi về vẫn khước từ vụ hiến vùng biển VN và nói với Lý Bằng là sẽ xem
lại sự việc. Sau đó Lý Bằng bắt Khải ngồi chờ, nói là Chủ tịch Giang
Trạch Dân muốn gặp Khải tại Zhong-nai-hai và sau đó Khải được đưa đi gặp
Giang Trạch Dân và cho Zhu Rongji hù dọa Khải nói: “Trung Quốc đã nắm
trong tay Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh... nếu không nghe lời TQ Khải sẽ
bị tẩy chay và coi chừng bị “chích thuốc”. Khải cúi đầu và run sợ, sau
đó đòi về. Trước khi Khải về, một lần nữa Giang Trạch Dân nhắn Khải gửi
lời thăm Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh chứ không nhắc tới tên người khác
trong Quốc Hội cộng sản VN. Khải không được khoản đãi như một vị quốc
khách vì tính tình bướng bỉnh không nghe lời đàn anh...”.
6) Vào ngày 24 tháng 12 năm 2000, Thứ Trưởng Bộ Ngoại giao cộng sản Lê
Công Phụng được Trần Đức Lương âm thầm phái đến Trung Quốc gặp quan chức
tình báo của Trung cộng là Hoàng Di - cánh tay phải của Bộ Trưởng Ngoại
Giao Trung cộng. Di nói tiếng Việt rất rành. Hai bên đã gặp nhau ở một
địa điểm X gần biên giới Việt (tỉnh Móng Cái Việt Nam). Theo bản báo cáo
cho bộ chính trị cộng sản VN, Lê Công Phụng cho biết lúc đầu Hoàng Di
vẫn khăn khăn đòi chia 50/50 với Việt Nam về vùng biển Vịnh Bắc Việt
“Beibu Bay” đòi lấy luôn đảo Bạch Long Vĩ sau đó Phụng, được bộ chính
trị dặn trước là xin lại 6% của Vùng biển gần khu vực Bạch Long Vĩ vì đã
được lâu đời là của Việt Nam, Kết quả cuộc đi đêm Việt Nam còn lại 56%
Vịnh Bắc Việt và mất đi 16,000 Km2 vùng vịnh cho Trung cộng.
7) Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Trần Đức Lương từ Hà Nội qua Bắc Kinh gặp
Giang Trạch Dân và được đưa về Thành Bắc của Quảng Trường Nhân Dân, theo
tài liệu lấy được của tình báo Trung cộng. Trần Đức Lương và Lê Khả
Phiêu chính thức quyết định thông qua bản hiệp ước hiến đất bất chấp lời
phản đối của Khải và nhiều người trong quốc hội. Bản hiến chương hiến
đất cho Trung Quốc được chính Giang Trạch Dân và đảng cs Trung Cộng trả
cho số tiền là 2 tỉ USD được chuyển cho các quan chức cộng sản chia
nhau.
8) Ngày 26 tháng 12 năm 2000 vào lúc 2 giờ trưa, Lý Bằng được cận vệ đưa
tới gặp Trần Đức Lương ở Quảng Trường Nhân Dân. Lý Bằng cho Lương biết
là số tiền 2 tỉ dollar để mua 16,000 km2 vùng vịnh Beibu của Việt Nam
là hợp lý. Trần Đức Lương cám ơn Trung cộng về số tiền này... Sau cuộc
gặp này thì Khải, Kiệt v.v... đã đồng ý với quyết định bán đất cho Trung
cộng vì có phần chia chác trong số tiền này. Lý Bằng nhắc lại chuyện
Trung cộng đã bán vũ khí và hổ trợ cho cộng sản VN trong thời gian chiến
tranh và số nợ trên Trung cộng dùng để trao đổi mua lại vùng đất Bắc
Sapa của Việt Nam, Ải Nam Quan, Bản Dốc, Cao Bằng... Sau đó Lương được
mời lên xe Limo và đưa về Zhong-nan-hai để gặp Zhu Rongji, Zhu Rongji
không nói gì khác hơn là nhắc lại số tiền 2 tỉ USD sẽ được giao cho Việt
Nam sau khi Lương trở về nước.
9) Ngày 26 tháng 2 năm 2001 Nguyễn Mạnh Cầm bay sang Trung Quốc để gặp
Qian Qichen tại đảo Hải Nam. Nguyễn Mạnh Cầm cám ơn Trung Quốc đã mua
vùng Vịnh Bắc bộ của Việt Nam (Beibu Bay) với giá 2 tỉ USD.
Nếu bạn đọc chịu khó tìm hiểu lại “Những sự thật cần phải biết”
từ phần 23 đến phần 28 và 16 sẽ thấy rõ những tên thủ phạm, đó là những:
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phan Văn Khải, Võ Văn Kiệt v.v...
Thứ hai, khi nói đến mất đất cho Trung cộng, chúng ta
không thể nào quên việc mất đất tại Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Bãi Tục
Lãm và những Boxit Tây Nguyên, Đông Đô Đại Phố, Đảo Gạc Ma, Đỉnh Lão Sơn
v.v...
Không khó để thấy thêm những bằng chứng cho thấy cộng sản Việt Nam hiện
nay vẫn theo gương Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tiếp tục bán nước với
những phát biểu tri ân giặc:
Đầu tiên là bản Tuyên bố chung 10 điểm “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung Quốc - Việt Nam” ký kết ngày 21/06/2013 giữa Tập Cận Bình tổng bí thư đảng cộng sản Trung cộng và Trương Tấn Sang.
Tiếp sau đó, để đền đáp “công ơn” hiểm độc trên của Trung cộng, Phùng
Quang Thanh đại tướng ủy viên BCT / TW đảng, bộ trưởng Bộ Quốc phòng
thay mặt đảng, quân đội Nhân Dân Việt Nam khẳng định tại buổi họp mặt kỷ
niệm ngày thành lập Giải Phóng Quân Trung Quốc tại Bộ Quốc Phòng Việt
Nam ngày 28/7/2012 như sau: “...Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và
mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà đảng,
Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho
Việt Nam...”
Tiêu biểu cho tư tưởng chiến lược của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, Trần
Đăng Thanh đại tá phó giáo sư - tiến sĩ, nhà giáo ưu tú, thuộc học viện
Chính trị Quốc Gia Bộ Quốc Phòng trong một buổi giảng bài tại Trường Cao
đẳng Cộng đồng Hà Tây ngày 19/12/2012 đã phân tích: “... Trong 4 năm
kháng chiến chống Pháp, 21 năm chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc, nhà nước
Trung Quốc đã từng nhường cơm xẻ áo dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ
khẩu súng, từ đôi dép để chúng ta giành thắng lợi trong kháng chiến
chống Pháp và thắng Mỹ. Như vậy ta không quên họ đã từng xâm lược chúng
ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng
ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa, đấy là đối với Trung Quốc
hai điều không được quên...”.
Thứ ba, những bằng chứng mất biển đảo, đất đai khắp nơi đó xin được tóm tắt như sau:
- Tài liệu của CSVN, "Vấn đề Biên giới giữa Vệt Nam và TC"
do NXB Sự Thật Hà Nội ấn hành năm 1979 xác nhận thác Bản Giốc của Việt
Nam.
- Còn đây là sự thật về sự mất thác Bản Giốc mà các bạn hoàn toàn có thể kiểm chứng bằng hình ảnh và luận cứ:
Xin được trích lại một lời phát biểu của ông Mai Thái Lĩnh về vấn đề này như sau:
"Ông Mai Thái Lĩnh: Bài viết của tôi vừa rồi có nhan đề là “Sự thật về Thác Bản Giốc” (Phần 1 và phần 2). Thật ra không phải tất cả đều là ý kiến của tôi, mà đây có thể nói là một công trình tập hợp tất cả những bằng chứng mà nhiều bài viết trước đây - nhiều người đã viết trong vòng khoảng chục năm nay, để chứng minh thác Bản Giốc hoàn toàn là của Việt Nam.
"Ông Mai Thái Lĩnh: Bài viết của tôi vừa rồi có nhan đề là “Sự thật về Thác Bản Giốc” (Phần 1 và phần 2). Thật ra không phải tất cả đều là ý kiến của tôi, mà đây có thể nói là một công trình tập hợp tất cả những bằng chứng mà nhiều bài viết trước đây - nhiều người đã viết trong vòng khoảng chục năm nay, để chứng minh thác Bản Giốc hoàn toàn là của Việt Nam.
Trong đó đáng kể nhất là một nhà nghiên cứu ở Pháp, ông Trương Nhân
Tuấn, một Việt kiều sinh sống ở Pháp. Ông đã sưu tập được rất nhiều tài
liệu thành văn về quá trình ký kết và cắm mốc giữa hai bên -- giữa Pháp
và nhà Thanh, vào cuối thế kỷ thứ 19.
Còn ở trong nước, tôi xin lấy ví dụ như ông Hàn Vĩnh Diệp, một đảng
viên Cộng Sản và là một cán bộ hưu trí. Ông này đã từng 7 lần đến thăm
Bản Giốc, từ 1958 đến 2006, và có lần từng ở lại một ngày một đêm ở bờ
bắc của sông Quây Sơn. Địa điểm này bây giờ, theo như tác giả viết, đã
thuộc về lãnh thổ của Trung Quốc rồi.
Tất cả những luận điểm của các tác giả nói trên vẫn còn một số điểm
chưa thật chính xác, vẫn còn những lỗ hổng, khiến cho toàn bộ chưa có
tính chất thuyết phục. Khó khăn lớn nhất là thiếu những bản đồ chi tiết
để giải thích rõ trước đây đường biên giới như thế nào và hiện nay đường
biên giới thay đổi ra sao. Nhất là cột mốc số 53.
Vừa rồi, trong quá trình nghiên cứu, tôi tìm được một số bản đồ. Đặc
biệt là qua mạng internet tôi tìm được hai tờ bản đồ, tỉ lệ 1/50,000.
Một là bản đồ do Quân đội Hoa Kỳ in năm 65 và một là của Quân đội Nhân
dân Việt Nam in năm 1980. Hai bản đồ này về cơ bản thì địa hình rất
giống nhau. Chỉ có khác là tờ bản đồ của Việt Nam thì Việt Nam đã Việt
hóa và điều chỉnh một số điểm, nhất là địa danh. Quan trọng nhất là hai
tờ bản đồ này có ghi rõ tọa độ địa lý và có những vòng cao độ, và trong
đó đặc biệt là có ghi rõ các cột mốc nằm ở đâu. Cho nên tôi nghĩ rằng
những người có trình độ về bản đồ học có thể căn cứ vào cái này để xác
định tọa độ các cột mốc một cách hết sức chính xác.
Ngoài ra còn có một tờ bản đồ chi tiết về đường biên giới mới. Tờ bản
đồ này sở dĩ có được là vào cuối tháng 10 năm 2011 có một đoàn nhà văn
quân đội đã lên thăm đồn biên phòng Đàm Thủy ở gần thác Bản Giốc và chụp
ảnh lại bản đồ chi tiết về đường biên giới này.
So sánh mấy tờ bản đồ với nhau thì chúng ta thấy rõ ràng là cột mốc
53 đã bị dời đi, đường biên giới bị sửa đổi, và do vậy nên ta mất đi một
nửa thác chính của thác Bản Giốc. Cho nên có thể nói là với những tư
liệu này chúng ta có thể chứng minh được thác Bản Giốc trước hoàn toàn
là của Việt Nam.
Và tất cả những điều này rất ăn khớp với tất cả những tư liệu về địa
lý trước đây của nước ta, cũng như ăn khớp với những điều mà trong bản
Bị Vong Lục ngày 15 tháng 3 năm 1979 mà Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công
bố trong cuốn sách “Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc” do Nhà
Xuất bản Sự Thật xuất bản vào năm 1979. Có thể nói là tất cả rất có hệ
thống và rất chính xác và đã chứng minh rằng thác Bản Giốc là hoàn toàn
thuộc về Việt Nam.”
(Xem nguyên văn tại: voatiengviet.com/content/foa-vietnam-china-land-border-dispute-2-18-12-139576673/915229.html).
CSVN thừa nhận mất thác Bản Giốc: Trong một cuộc phỏng vấn dành
cho báo chí, Thứ trưởng Ngoại giao Cộng sản Việt Nam là Vũ Dũng, cũng là
trưởng đoàn đàm phán biên giới giữa Việt Nam và Trung cộng, đã tìm mọi
cách để biện minh cho việc cắt đất dâng biển cho Bắc Kinh, và thú nhận
đã để mất Thác Bản Giốc và Ải Nam Quan.
Trong cuộc phỏng vấn, Vũ Dũng cho biết hơn 7 năm sau khi cắm cột mốc đầu
tiên, Việt Nam và Trung Cộng đã hoàn thành việc phân giới cắm mốc 1400
cây số biên giới. Trong cuộc đàm phán cuối cùng trong 3 ngày qua, vấn đề
mấu chốt còn lại là khu vực thác Bản Giốc ở Cao Bằng và cửa sông Bắc
Luân ở Quảng Ninh. Nay sau khi thương lượng, kết quả vẫn như cũ là tại
thác Bản Giốc, hai bên đã thống nhất đường biên giới đi từ mốc 53 cũ.
Thác Bản Giốc có hai phần, phần hoàn toàn về phía Việt Nam gọi là thác
cao, nhưng lại là thác phụ vì lượng nước không lớn. Thác thấp là thác
chính sẽ chia đôi, mỗi bên được một nửa.
Vũ Dũng nói rằng hai bên hứa hẹn sẽ không xây dựng các công trình nhân
tạo trong phạm vi hẹp khu vực thác để giữ nguyên cảnh quan, vì đây là
một thác đẹp có thể khai thác du lịch, và Trung cộng cũng hứa hẹn sẽ hợp
tác phát triển du lịch khu vực thác Bản Giốc. Hai bên còn hai cột mốc
nữa ở thác Bản Giốc chưa cắm, đó là cột mốc trên thượng lưu ở mốc 53 và
cột mốc ở ngay dưới chân thác.
- Và còn đây là những sự thật về mất Lão Sơn và những Đông đô
đại Phố, người Tàu ở Hà Tĩnh v.v... mà chúng ta có thể dễ dàng kiểm
chứng trong muôn vàn những sự thật về một Việt Nam “Đầy ắp Trung cộng”:
+ Sự thật mất Lão Sơn:
+ Hà Tĩnh phố Tàu:
Còn đây là một đoạn trích trên báo Pháp Luật - TPHCM (của chính cộng sản thừa nhận): “Trải
dài 30 km dọc quốc lộ 1A qua các xã Kỳ Liên, Kỳ Long, Kỳ Thịnh (Kỳ Anh)
xuất hiện hàng trăm quán cắt tóc, cơm, nhà hàng, khách sạn biển hiệu
Trung Quốc, Đài Loan. Ông Nguyễn Văn Hùng, một người dân Kỳ Liên, cho
biết: “Lao động Trung Quốc thường gợi ý nên lắp biển hiệu chữ họ và từ
chối vào quán không có tiếng Trung. Vì vậy một số cửa hàng đặt biển hiệu
toàn chữ Trung không có một chữ tiếng Việt, thậm chí không tiếp người
Việt. Nhiều lúc tôi tự thắc mắc sao người ta lại biến đất Việt thành đất
Tàu…!”
Và đây là nguyên nhân:
+ Boxit Tây Nguyên:
Với dự án khai thác bauxite Tây Nguyên (2001), hợp đồng cho thuê rừng
đầu nguồn của 10 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, Trung Quốc đã nghiễm
nhiên trở thành chủ nhân ông của những cao điểm chiến lược để khống chế
Việt Nam và Đông Dương.
Và còn rất, rất nhiều bằng chứng mà chúng ta có thể dễ dàng thấy: chúng
ta đã mất biển đảo, đất đai trên khắp quê hương Việt Nam cho giặc Trung
cộng.
3. Hán hóa đàn áp lòng yêu nước:
Để tiến hành việc Hán hóa và đàn áp lòng yêu nước của nhân dân ta, cộng
sản đã đưa rất nhiều hình thức mà trong một vài bài viết không thể lột
tả hết, do đó xin điểm lại một số điểm chính để bạn đọc có thể thấy hết
bản chất bán nước của cộng sản Việt Nam.
Thứ nhất, về sách dạy tiếng Tàu, cờ sáu sao là những biểu
hiện đầu tiên của sự nghiệp Hán hóa của Trung cộng mà cộng sản Việt Nam
đã áp đặt. Các bạn có thể đọc được dễ dàng từ nguồn “báo đảng”:
Bảng chữ cái Trung Quốc in trên bàn học sinh
Cờ sáu sao bán nước
Thậm chí ngay cả người dùng điện thoại di động cũng được thông báo bằng tiếng Trung cộng (Bài viết từ báo đảng: giaoduc.net.vn/Kinh-te/Thi-truong/Kho-hieu-thong-bao-tieng-TQ-chen-ngang-cuoc-goi-cua-MobiFone/294406.gd ).
(Tổng đài mobifone: 18001090 dùng tiếng Tàu nhắn tin)
Thứ hai, việc mở viện Khổng tử gần đây cũng là một bằng chứng chứng tỏ cộng sản đang dần bắt người Việt chúng ta thành tộc Hán.
Nhưng nó được bắt đầu từ đây:
Tờ nhật báo “Tiếng Dội” số 462, năm thứ 3, 1951, Âm lịch
22 tháng Bảy năm Tân Mão, giá bán 1 đồng, của Chủ nhiệm Trần Chí Thành
tự Trần Tấn Quốc, Tòa soạn, Quản lý 216 đường Gia Long Sài Gòn, có bài
mang tựa đề “Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung Quốc”, cho in nguyên văn một tờ truyền đơn do Trường Chinh ký như sau:
“ỦY BAN HÀNH CHÍNH KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
NĂM THỨ VII
TỔNG THƯ KÝ ĐẢNG LAO ĐỘNG VN
SỐ: 284/LĐ ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC
Hỡi đồng bào thân mến!
Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một
nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của
bọn da trắng Tư Bản đem vào!
Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mũi Cà
Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua
xứ mình như thế?
Không, đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối Âu Tây ấy -
một cách viết rõ ràng có mau thật đấy - và ta hãy trở về với thứ chữ của
ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc.
Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta - mà có lẽ là thầy của chúng ta
nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế - có phải là dân tộc văn
minh trước nhất hoàn cầu không? Còn nói gì đến y khoa của Âu Mỹ: Chúng
chỉ cắt, đục, khoét, nạo! Có thế thôi!
Hỡi đồng bào yêu mến! Chúng ta hãy gạt bỏ cách chữa bệnh của bọn Đế quốc phương Tây đem qua xứ ta!
Ta hãy bỏ nhà bảo sanh của chúng, bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy dùng
thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tàu danh tiếng
khắp cả hoàn cầu!!!!
Ta hãy trở về phương pháp này, trước nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa,
sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta bao nhiêu những đồ
nhập cảng thực dân như là khoa học, phát minh v.v...
Ta hãy quét sạch lũ “trí thức” đã xuất thân ở các trường Âu Mỹ, đế quốc và thực dân!
Chúc “Tổng phản công” và “Thi hành mọi phương pháp bài trừ thực dân”.
Trường Chinh
Tổng thư ký đảng Lao Động”.
Đây là một văn bản cho thấy đảng cộng sản chủ trương bán nước và Hán hóa
dân tộc, kêu gọi làm chư hầu rõ rệt nhất cho Trung cộng. Việc này là
một sự cho thấy rõ nét âm mưu Hán hóa của đảng cộng sản trong vô vàn
hành động khác. Số báo Tiếng Dội này nằm trong Thư Viện tiếng Việt thuộc
Bảo Tàng Viện Anh Quốc (British Museum - London). Bạn đọc hoàn toàn có
thể kiểm chứng.
Thứ ba, việc đàn áp các cuộc biểu tình chống Tàu cũng là
một biểu hiện cho thấy cộng sản bán nước toàn diện. Nếu không bán nước
thì lý do gì ngăn cấm lòng yêu nước? Nhiều lắm những Nguyễn Văn Hải,
Phạm Thanh Nghiên vv.. đã phải vào tù về lòng yêu nước của mình bị đảng
cộng sản bắt vì “phản động”.
Vụ án blogger Điếu Cày
Vụ án Phương Uyên – Nguyên Kha
Đàn áp biểu tình yêu nước:
Không bán nước sao đàn áp người yêu nước?
II. Bán nước có hệ thống:
Những bằng chứng thực tế bán nước của cộng sản là rõ ràng, không thể
chối cãi. Tuy nhiên nó được xuất phát bằng văn bản như thế nào? Trong
khuôn khổ bài viết này sẽ nói về điều đó:
Thứ nhất, ngày 3.12.2001 trong “Tuyên bố chung Việt Nam -
Trung Quốc nhân chuyến thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt
Nam Nông Đức Mạnh “cụ thể là trong điểm thứ 6: “6- Hai bên xác định
trong thế kỷ mới cần tiếp tục tăng cường và mở rộng hợp tác kinh tế,
thương mại, khoa học-kỹ thuật và các lĩnh vực khác giữa hai nước theo
phương châm bình đẳng, cùng có lợi, chú trọng hiệu quả, bổ sung ưu thế
cho nhau, hình thức đa dạng, cùng nhau phát triển; tích cực khuyến khích
và ủng hộ các doanh nghiệp hai bên khai thác thêm thị trường hàng hóa
của hai nước, tăng cường đầu tư và hợp tác, mở rộng quy mô hợp tác kinh
tế và kỹ thuật, thực hiện các dự án hợp tác đem lại hiệu quả kinh tế và
xã hội thiết thực.
Nhân dịp này, hai bên đã ký Hiệp định khung giữa Chính phủ nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa về việc Trung Quốc cung cấp cho Việt Nam khoản tín dụng ưu đãi và
Hiệp định hợp tác kinh tế kỹ thuật giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ; và nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác lâu dài trên dự án bô-xít nhôm Đắc Nông.
Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng Trung Quốc trở thành thành viên Tổ chức
thương mại thế giới. Trung Quốc tích cực ủng hộ Việt Nam sớm gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới.”
(xem toàn văn tại website của Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ: viet.vietnamembassy.us/tintuc/story.php?d=20011203000335 )
Tháng 11.2006, Hồ Cẩm Đào sang Việt Nam chuyến nữa. Lần này thông báo viết: “Từng
bước cải thiện cơ cấu mậu dịch, cố gắng thực hiện phát triển cân bằng
và tăng trưởng bền vững thương mại hai chiều. Tích cực ủng hộ và thúc
đẩy doanh nghiệp hai nước hợp tác lâu dài và cùng có lợi trong các lĩnh
vực xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo, khai thác nguồn nhân
lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lĩnh vực quan trọng khác. Khẩn trương bàn bạc và thực hiện các dự án lớn như bô-xít Đắc Nông…”
(Xem tại website của báo Sài Gòn Giải Phóng cộng sản: sggp.org.vn/apec/2006/11/71847/).
Qua đây chúng ta thấy điều gì? Đó là Nông Đức Mạnh và đảng cộng sản đã
bán nước cho Trung cộng thông qua dự án Bô Xít Tây Nguyên. Đó là bằng
chứng không thể chối cãi của kẻ đứng đầu đảng độc tài cộng sản.
Theo một tài liệu được tiết lộ bởi Wikileaks thì Vụ Bauxit Tây Nguyên,
Nông Đức Mạnh nhận 300 triệu USD - Nguyễn Tấn Dũng 150 triệu USD: “Những
chuyển ngân cho gia đình Thủ Tướng Nguyền Tấn Dũng chỉ bắt đầu vào cuối
năm 2006 và đến tháng 6 năm 2009 thì tổng số cũng đã lên khoảng gần 150
triệu đô la. Kể từ cuối năm 2001 đã có những giao dịch chuyển ngân hàng
chục triệu đô la từ Trung Quốc sang các tài khoản của gia đình Tổng Bí
Thư Nông Đức Mạnh ở Thụy Sĩ và ở Cayman Islands. Vào thời điểm của điện
văn này là tháng 6 năm 2009 thì tổng số đã chuyển ngân lên tới gần 300
triệu đô la...
Theo tin từ một thân hữu báo chí ở Norway (Na Uy), một điện văn trong
số 250,000 mà WikiLeaks lấy được từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và đã giao cho
tờ báo buổi chiều lớn nhất Na Uy là tờ Aftenposten thì có một điện văn
liên quan về Việt Nam nói đến dự án khai thác bô-xít nhôm ở Tây Nguyên.
Nội dung điện văn chính yếu là yêu cầu Bộ Tài Chính Hoa Kỳ giúp điều
tra và xác minh một số giao dịch ngân hàng quốc tế. Cụ thể, theo điện
văn này thì một nguồn tin trong giới ngân hàng Việt Nam cho biết kể từ
cuối năm 2001 đã có những giao dịch chuyển ngân hàng chục triệu đô la từ
Trung Quốc sang các tài khoản của gia đình Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh ở
Thụy Sĩ và ở Cayman Islands. Vào thời điểm của điện văn này là tháng 6
năm 2009 thì tổng số đã chuyển ngân lên tới gần 300 triệu đô la.
Cũng trong điện văn này, nguồn tin từ ngân hàng Việt Nam cho biết
những chuyển ngân cho gia đình Thủ Tướng Nguyền Tấn Dũng chỉ bắt đầu vào
cuối năm 2006 và đến tháng 6 năm 2009 thì tổng số cũng đã lên khoảng
gần 150 triệu đô la. Các chuyển ngân trong phần của Thủ Tướng Nguyễn Tấn
Dũng thì không đề cập đến ngân hàng nước nào”.
Mặc dù chưa kiểm chứng được bằng văn bản công khai của Wikileaks nhưng
việc đàn áp biểu tình chống Trung cộng (Trong đó có chống khai thác Bo
xit Tây Nguyên), lặng im xem các ý kiến phản đối của nhiều quan chức như
Đặng Hùng Võ, nhóm 72 và nhiều tổ chức, cá nhân khác của cộng sản Việt
Nam có thể xem là bằng chứng về việc cộng sản nhận tiền và cho giặc Tầu
vào làm boxit tại Việt Nam. Một minh chứng đặc biệt cho việc này là TS
Cù Huy Hà Vũ đã vào tù vì việc chống lại chủ trương cho Trung cộng khai
thác Bo Xit Tây Nguyên. Người ta nếu không nhận tiền bán nước thì không
thể bỏ tù một tiến sỹ Luật, con của một đại công thần cộng sản vì một lý
do lãng nhách nào khác.
Thứ hai, theo tin từ blog “Hỏi và trả lời” có bài viết nội dung sau: “10
giờ sáng ngày 08-04-2013, Thiếu tướng Hà Thanh Châu, Chính Ủy Tổng Cục
Công Nghiệp Quốc Phòng (Chủ Nhiệm Tổng Cục là Trung Tướng Nguyễn Đức
Lâm) được Luật Sư William Lê hướng dẫn đến Sở Di Trú King County,
Seattle, tiểu bang Washington State, nạp đơn "xin tỵ nạn chính trị", sau
2 tuần lễ ông và vợ ông đi thăm 3 người con đang là "du học sinh" ở
tiểu bang này.
"10 giờ sáng ngày 08-04-2013, Thiếu tướng Hà Thanh Châu, Chính Ủy
Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng (Chủ Nhiệm Tổng Cục là Trung Tướng
Nguyễn Đức Lâm) được Luật Sư William Lê hướng dẫn đến Sở Di Trú King
County, Seattle, tiểu bang Washington State, nạp đơn "xin tỵ nạn chính
trị", sau 2 tuần lễ ông và vợ ông đi thăm 3 người con đang là "du học
sinh" ở tiểu bang này.
Bốn ngày sau, qua trung gian của 1 "viên chức" cao cấp Hoa Kỳ, ông
trao cho chủ bút Tạp Chí Foreign Policy Magazine một tập tài liệu "tối
mật", có liên quan đến sự sống còn của nước Việt nam, dự trù sẽ đăng tải
cuối năm 2013. Tập tài liệu này, do người anh vợ của ông, Thiếu Tướng
H.T.T. làm Chính Ủy Tổng Cục 2, dưới thời Tổng Cục Trưởng Trung Tướng
Nguyễn Chí Vịnh, chép lại nguyên văn từ cuốn băng nhựa AKAI mang bí số
ML887, ghi âm những cuộc họp bí mật của các nhà lãnh đạo Việt Nam:
Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh và
Trung Cộng:
Giang Trạch Dân (sinh năm 1926), Lý Bằng, Lương Quang Liệt, Diệp
Tuyển Ninh, Dương Đắc Chí, Hứa Thế Hữu... tại Thành Đô, thảo luận các
thỏa hiệp sát nhập nước Việt Nam vào lãnh thổ "Trung Quốc". Chúng tôi
(tác giả bài viết này), hiện làm "bỉnh bút" cho tờ Foreign Policy
Magazine, nên được phổ biến bằng Việt ngữ, giới hạn, trong vòng thân
hữu.
Thật ra, các cam kết "giao nước Việt Nam cho Trung Quốc", đã được
"ký" bằng "lời hứa danh dự " của ông Hồ Chí Minh với 2 Đại Tướng Tàu
Trần Canh và Vị Quốc Thanh, thay mặt cho Mao Trạch Đông vào năm 1926.
Bốn năm sau, năm 1930, thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Hồ khẳng
định một lần nữa với Tổng Lý Chu Ân Lai:"Việt Nam và Trung Quốc tuy hai
mà một. Một dân tộc. Một Nền văn hóa. Một phong tục. Một tổ quốc. Nếu
giúp chúng tôi thắng Pháp, thắng Nhật, thắng tất cả bọn tư bản vùng Đông
Nam Á, nắm được chính quyền, thì nợ viện trợ sẽ hoàn trả dưới mọi hình
thức, kể cả cắt đất, cắt đảo, lùi biên giới nhượng lại cho Trung Quốc,
chúng tôi cũng làm, để đền ơn đáp nghĩa..."
Vấn đề là trong tài liệu Thiếu tướng Hà Thanh Châu cung cấp có đoạn:
Ngày 10-08-1987, ông Nguyễn Văn Linh (đang mắc bệnh ung thư) bay qua
Trùng Khánh gặp Hồ Diệu Bang (1915-1989), Đặng Tiểu Bình (1904-1992= thọ
92 tuổi) bàn luận về các kế hoạch cắt đất, cắt biên giới và phác họa rõ
ràng hơn. 1 chương trình "sát nhập Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc"
qua chiến thuật "Hòa Bình, hữu nghị, chầm chậm, êm ả, kín đáo, không ai
có quyền biết đến" với thời gian 60 năm, phân ra làm 3 giai đoạn, mỗi
giai đoạn 20 năm.
GIAI ĐOẠN I: Ngày 15-07-2020: QUỐC GIA TỰ TRỊ.
GIAI ĐOẠN II: Ngày 05-07-2040: QUỐC GIA THUỘC TRỊ.
GIAI ĐOẠN III: Ngày 05-07-2060: Tỉnh lỵ Âu Lạc.
Tỉnh trưởng vẫn là người Việt, đặt dưới quyền lãnh đạo của Tổng Đốc Quảng Châu”.
(Bạn đọc có thể xem tại đây:
Thứ ba, Trung cộng đã cho thấy cộng sản bán nước cho họ
nên Trung cộng đã ngang nhiên thực hiện các tuyên bố và hình ảnh cho
thấy Việt Nam là một tỉnh của Trung cộng.
Trang mạng "Tiếng Hát Hữu Nghị" của CRI Đài phát thanh quốc tế
Tàu cộng đăng bài viết "Khai mạc Đại hội Thể thao Truyền thống Dân tộc
Thiểu số Trung Quốc lần thứ 9".
Theo trang tin tức của Trung Cộng “world.huanqiu.com” thì Nguyễn Chí Vịnh cũng cho rằng: “Việt
Nam đã quyết định tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình Quốc tế,
đã đề nghị Trung Quốc đến Việt Nam để tham gia vào các hoạt động gìn giữ
hòa bình và giúp đỡ”.
Thế nào là cái gọi “Đề nghị Trung Quốc vào Việt nam tham gia gìn giữ hòa
bình”? Đó chính là một tuyên bố: Rước voi về giày mả tổ của cộng sản
Việt Nam!
Thậm chí Báo chí Bắc Kinh còn loan tải. "Chiến tranh ngoại giao Trung
Quốc thắng lớn, chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc", "Đã thu phục
một chư hầu đời nay chỉ cần 10 văn kiện hợp tác toàn diện".
Nguồn: Tân Hoa Xã.
Thứ tư, bán nước là chủ trương của cộng sản Việt Nam.
Nhưng vấn đề là nó xuất phát từ đâu? Trong khuôn khổ bài viết này xin
được trình bày rõ ràng nguồn gốc xuất phát của nó.
Như chúng ta đã biết công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng là bề ngoài của vấn
đề, nhưng có một thỏa ước khác của Hồ Chí Minh với Trung cộng mà chúng
ta gần như không được biết đến từ năm 1953. Năm 1953 chính Hồ đã ký giao
ước gửi Việt Nam cho Tàu. Giao ước của Hồ là lúc đó hồ chấp nhận Việt
Nam là 1 quân khu ngang hàng với Quảng Châu. Thực chất là Hồ đã đích
thân ký thỏa thuận giao Việt Nam dần dần bắt đầu từ HS-TS sau đó cả VN
làm một bang của Trung cộng như dạng các nước nhỏ dưới thời Xô Viết nếu
chiếm được toàn Việt Nam nhờ Trung cộng viện trợ quân, vũ khí... Thỏa
thuận này ký năm 1953 tại Quảng Tây. Không ngạc nhiên sau đó 1958 thì
giao HS-TS bằng công hàm PVĐ và tiếp sau...
Giao ước có tên “Ghi nhớ hợp tác Việt Trung” - số hiệu (VT/GU- 0212) ký ngày 12/06/1953 tại Quảng Tây giữa Hồ và Mao như sau:
“Trước tình hình quân đội thực dân Pháp đang củng cố xâm lược Việt
Nam. Đảng cộng sản nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đảng Lao động
Việt Nam dân chủ cộng hòa nhận thấy cần có sự tương trợ và giúp đỡ lẫn
nhau để giữ tình đoàn kết hai đảng, chính phủ và nhân dân hai nước như
sau:
Điều 1: Chính phủ Trung Quốc sẽ đồng ý viện trợ vũ khí theo yêu cầu
chi viện của quân đội nhân dân Việt Nam. Ngoài ra sẽ gửi các cố vấn,
chuyên gia quân sự để giúp đỡ quân đội nhân dân Việt Nam.
Điều 2: Đảng Lao động do đồng chí Hồ Chí Minh lãnh đạo đồng ý sáp
nhập đảng Lao Động Việt Nam là một bộ phận của đảng cộng sản Trung Quốc.
Điều 3: Hai bên thống nhất Việt Nam dân chủ cộng hòa là một bộ phận
của cộng hòa nhân dân Trung Hoa với quy chế của một liên ban theo mô
hình các quốc gia nằm trong Liên Bang Xô Viết (Phụ lục đính kèm).
Điều 4: Trước đảng và chính phủ hai nước cần tập trung đánh đuổi thực
dân Pháp và giành lại chủ quyền lãnh thổ cho Việt Nam. Các bước tiếp
theo của việc sáp nhập sẽ được chính thực thực thi kể từ ngày hôm nay
12/06/1953.
Điều 5: Chính phủ cộng hòa nhân dân Trung Hoa đồng ý cung cấp viện
trợ kinh tế cho chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa theo thỏa thuận đã
bàn giữa chủ tịch Mao Trạch Đông và chủ tịch Hồ Chí Minh (Phụ lục đính
kèm).
….
Ký tên: Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông”
Vì một số lý do an ninh, tôi không in được bản in của thỏa ước tối mật
bán nước của Hồ cho Trung cộng mà chỉ là phần ghi lại nội dung chính của
bản thỏa ước đó. Bản in này sẽ được cung cấp trong thời gian gần nhất
có thể.
Nhưng có một điều tôi xin lưu ý: Có lẽ Hồ bị Lê Duẩn giam giữ tại K9
không hẳn đã phải vì lý do tranh giành quyền lực mà vì công hàm Hồ ký
bán nước năm 1953. Chúng ta phỉ biết Duẩn là 1 tên cộng sản độc tài
nhưng không bao giờ tán thành việc sát nhập 2 nước VN-TQ của Hồ. Và cũng
có lẽ vì giao ước sát nhập 2 nước năm 1953 do Hồ ký này mà cộng sản
Việt Nam hiện nay vẫn đang tiếp tục con đường bán nước...!
III. Kết luận:
Cộng sản Việt Nam đã bán nước toàn diện cho Trung Cộng xuất phát từ Hồ
Chí Minh cho đến nay. Chính vì vậy những hành động bỏ mặc ngư dân, đàn
áp biểu tình, cho người Tàu vào Việt Nam công khai không visa là điều
quá sức dễ hiểu. Chúng ta cần phải cho người dân thấy điều này để chúng
ta nhanh chóng đứng lên lật đổ đảng cộng sản nếu không muốn con cháu của
chúng ta trở thành nô lệ cho Trung cộng.
Đất nước Việt Nam chúng ta đã trải qua 4000 năm văn hiến, chúng ta cũng
đã có nhiều anh hùng như Trần Hưng Đạo, Quang Trung v.v... đã lãnh đạo
dân tộc ta đánh đuổi ngoại xâm. Ngày nay băng đảng cộng sản Việt Nam
chính là những Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc trong thời đại mới. Đó là
một sự thật không thể chối bỏ rất đau xót mà chúng ta phải vượt qua! Hãy
can đảm lên hỡi những người con Việt Nam! Tương lai phải thuộc về chúng
ta, chính nghĩa thuộc về chúng ta!
6/11/2013
có nên tin k đây?
Trả lờiXóahat dieu rang muoi – hạt điều rang muối