Không cố ý phơi bầy vô trách nhiệm- nhưng sự thật vẫn phải
chấp nhận!
LỐI XƯA
XE NGỰA HỒN THU THẢO…
*
Huỳnh
Chiếu Đẳng
“Vào
Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì
nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền
Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ… nếu
người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh
đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn
của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà
dân tộc Việt Nam phạm phải…” - Dương Thu Hương.
“Một
câu hỏi da diết xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương
mặt mà ta đã gặp, những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm chí một
tiếng chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như không có Ngày
Độc lập 2/9 ấy?…” -Trương Tấn Sang
.
“Tạo hóa gây chi cuộc hí
trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh ấy người đây luống đoạn trường”
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh ấy người đây luống đoạn trường”
(Bà
Huyện Thanh Quan)
Bài
thơ tác giả “hoài
cảm” sau năm 1802 khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn lên ngôi, niên
hiệu Gia Long và định đô ở Huế. Từ đó, Thăng Long (Hà Nội) chỉ
còn là “cố đô” -
Lời thơ mang âm hưởng hoài niệm tiếc nuối một thời vàng son dĩ vãng.
Bối
cảnh cũng gần giống như vậy – Sài Gòn xưa “hòn ngọc Viễn Đông” một
hình ảnh thiêng liêng, thân thương không thể nào phai nhòa trong trái tim của gần ba mươi
triệu người miền Nam, Việt Nam, có một thời, dù khói lửa chiến chinh
từ phía Bắc, bên kia vĩ tuyến 17 tràn sang nhưng cũng cố gắng vươn
lên trong những khoảnh khắc “tạm yên bình” ngắn ngủi giữa thập
niên 60-70 – Ngắn ngủi thôi, nhưng những gì có được cũng đã làm cho
những trái tim còn thuần khiết “tính người” như nhà văn nữ miền
Bắc Dương Thu Hương phải mềm lòng thổn thức rơi lệ bởi
cảm xúc trong ngậm ngùi, “tiếc nuối”, giữa lòng TP/phố Sài Gòn 30/4/1975.
Nhà văn này tâm sự….
.
Dương Thu
Hương: (thở dài) Điên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc
thì tôi có hai lần khóc.
Lần thứ
nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi
người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc.
Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp
lắm vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các
nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ
tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm
bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy dẫy các phương tiện thông
tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người
miền Bắc là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài,
sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài
Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới
được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Qu ốc. Còn toàn bộ dân
chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được
nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế
độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.
Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào,
Pháp, Anh, Mỹ… nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của
nền văn minh. Và thật
chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự
hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm
lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải.
(Nguồn:
Nhật Báo Người Việt).
Và
mới đây trong một bài viết nói về ngày 2/9 có cái tựa “Phải biết hổ thẹn với tiền nhân” ông “Tổng thống” (CT nước) Trương tấn Sang như
“tâm sự” rằng (nguyên văn):
“Một
câu hỏi da diết xuất hiện trong những khoảnh khắc ấy: những gương
mặt mà ta đã gặp, những ngôi nhà, góc phố, hàng cây, mỗi ngôi làng hay thậm chí một
tiếng chuông chùa trong đêm sẽ như thế nào, sẽ ra sao, nếu như không có Ngày
Độc lập 2/9 ấy?…” thì những
dòng của viết bài này ngoài mục đích hoài cảm “một thoáng hương xưa”
với đồng bào, nhất là các bạn đọc trẻ trong và ngoài nước sinh sau
1975 thì cũng nhân tiện gửi đến ngài “Tổng thống nước” một
số hình ảnh cũ của Sài Gòn ngày xưa, nơi mà chắc ngài không lạ (vì ngài từng
là “chủ nhân ông”, hít thở không khí Sài Gòn một thuở) với cùng một câu hỏi: “… cảnh cũ này
sẽ thay đổi ra sao, nếu như không có Ngày 2/9 định mệnh ấy?…” thưa
ông!?…
Thập niên 1960-70 đường ray xe lửa vẫn còn trên đường
Hàm Nghi – Sài Gòn
Nhưng vóc dáng
một góc Sài Gòn, “thủ phủ Đông Dương” như thế này (1960-65) Bangkok,
Singapore, Đài Loan và Seoul sau Đệ II thế chiến chưa thể có kịp, và những hình ảnh cũ dưới đây của Sài Gòn một thuở,
người dân đang năng động hối hả xây dựng một cuộc sống
phồn vinh cho đất nước, cùng nhịp điệu với các quốc gia tự
do dân chủ vừa lấy lại độc lập trong khu vực Asean (Đông Nam Á) mà không
tốn một giọt máu nào.
This image has been resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 769×513.
This image has been
resized. Click this bar to view the full image. The original image is sized 766×490.
|
– Sài Gòn những
năm 1960-1970 (trên), cùng
thời điểm (ảnh dưới) là Hà Nội. Không cốt ý bôi bác hay phê phán, bởi
Nam Bắc cùng là dân Việt, nỗi buồn đâu của riêng ai! Mà đơn giản, so sánh
để khẳng định cái từ ngữ chiêu bài mà những người CSVN đã “lừa
bịp” đồng bào miền Bắc rằng: “Phải giải phóng đồng bào miền Nam đang bị kềm
kẹp trong đói nghèo, đau thương” là không có thật… mà thời
điểm ấy, quốc tế CS (Nga-Tàu) chi viện quân sự và chỉ thị cho CSVN phải
tiến hành đánh chiếm “nhuộm đỏ” miền Nam VN trước khi “cộng
sản hóa” Đông Dương (Việt-Miên-Lào”) và sau đó là Đông Nam Á, duy nhất
trên thế giới tại thời điểm ấy chỉ có CSVN là lấy “máu xương, lương thực” của
nhân dân miền Bắc làm “nhiên
liệu” thử nghiệm cổ máy cộng sản làm bàn đạp để
tiến xuống phía Nam Châu Á. Nhân dân miền Bắc không còn gì ngoài một đời sống
“hắt hiu, u buồn” bên trong bức màn sắt CNXH. Lo toan hàng ngày của mọi người,
duy nhất, là có một thứ gì đó cho vào bụng và mơ… một chiếc xe đạp!
Tất cả họ, đều như là những con “ốc vít” trong một cổ
máy chiến tranh, không có ngoại lệ, không ai được phép “sáng tạo” tư
hữu cho bản thân và gia đình ngoài “Bác và đảng cộng sản”…
- Hình ảnh Hà Nội thập niên 1960 – 1970:
Sài Gòn miền Nam – những năm 1960-1970 đang khởi đầu công
nghiệp hóa nền kinh tế non trẻ bằng hệ thống Ngân Hàng quốc gia tài trợ
cho các dịch vụ nhập khẩu máy móc trang thiết bị đầu tư kỹ thuật
trong các dây chuyền sản xuất nâng cao giá trị và năng suất các sản phẩm hướng
đến xuất khẩu, điển hình là băng rôn quảng bá cung ứng dịch vụ
này treo ngang đường Tự Do (Đồng Khởi ngày nay) – một chính sách thức
thời mà chế độ CS/XHCN miền Bắc còn rất xa lạ – không có trong kế
hoạch, cũng như kinh phí ngoại tệ…
Thập niên 1960-70 Hà Nội “kỹ thuật” chủ yếu dựa vào
thủ công “sức người” bởi hàng “viện trợ” của Nga Tàu
hầu hết chỉ là vũ khí súng đạn cung ứng cho cổ máy chiến tranh của
CSVN rất ít hàng hoá dân dụng tiêu dùng.
24-10-1966 – Các Phu nhân Tổng Thống – bà Thiệu, bà Johnson, bà Kỳ,
bà Marcos tháp tùng cùng Phu quân là các tổng thống, thủ tướng tại Philippines, trong phiên
họp thượng đỉnh của các nguyên thủ quốc gia trong Hiệp Ước
Liên Phòng Đông Nam Á.
19/5/2010 Bà Phó “PCT/Nước: Nguyễn thị Doan”(áo đen thứ ba
bên phải qua) và các “VIP” phụ nữ của CHXHCN/Việt Nam tham dự hội nghị
thượng đỉnh phụ nữ toàn cầu tại Bắc Kinh.
Cách
nhau gần nửa thế kỷ – hai nhóm phụ nữa trên và dưới có quá nhiều
khác biệt, không biết có phải là do “đặc trưng” của XHCN không? khiến
chúng ta khi so sánh sẽ mỉm cười thú vị mà không cần phải bình luận! Cũng cần nhắc lại
bà Nguyễn Thị Doan là tác giả câu nói bất hủ “Việt Nam dân chủ gấp vạn lần tư bản phương Tây…”
.
Nửa
thế kỷ cách ngày hôm nay nhưng vóc dáng phong thái của “phái yếu” người
Sài Gòn ngày xưa đó nét duyên dáng trí thức không lẫn vào đâu được, đa dạng
mái tóc kiểu phương Tây, chiếc áo dài ngày ấy đã canh tân không còn “cổ cao”,
tay áo cắt “raplan” và đặc biệt dễ nhận ra nhất của thập
niên 60-70 là áo dài có “chít eo” ngang hông rất rõ, những chiếc “jup” tây phương
sắc màu tươi trẻ nhưng không cao “quá gối” và nữ sinh, sinh viên tóc thề
áo trắng nên thơ, nói chung, phụ nữ xã hội miền Nam Sài Gòn thuở ấy có đủ
mọi thứ, để hoàn toàn tự do trang điểm làm đẹp cho chính mình mà không
bị lệ thuộc bất cứ chủ nghĩa giáo điều khe khắt nào khác…
This image has been resized. Click this
bar to view the full image. The original image is sized 1246×442.
|
Phương tiện xe gắn máy cá nhân phổ biến thông dụng ở thủ
đô Sài Gòn ngày đó ngoài các loại xe Vespa, Lamberetta Ý và Gobel, Mobilete, Velosolet của Pháp thì
đa phần là hai loại xe Nhật, Honda 67 cho nam và Honda Dame cho nữ, nhìn hình ảnh các “bóng
hồng” ngày ấy, đẹp và lịch sự trên đường phố Sài Gòn cách nay
nữa thế kỷ mà cứ ngỡ như mới ngày hôm qua – (cô gái có cái bảng nhắc
nhở mọi người lấy thẻ cử tri bầu cử Tổng Thổng 1967 –
Và hai cô gái váy đen bên chiếc taxi hai màu xanh vàng mang số hiệu 7533 của Sài Gòn thập
niên 1960). Hình ảnh đủ để chúng ta chiêm nghiệm cái lạc hậu độc
tài bảo thủ cố chấp của CSVN đã kéo lùi thời gian gây nên sự trì trệ
trong phát triển của dân tộc như thế nào so với những gì chỉ trong một
thời gian ngắn Sài Gòn làm được trước kia và so với các nước láng
giềng trong khu vực.
Tương phản khác biệt quá nhiều của khung cảnh, con người
Sài Gòn và Hà Nội cùng thời điểm, rất khó khăn và buồn lòng để bình luận
khi mà mơ ước lớn lao nhất của mọi người miền Bắc lúc bấy
giờ chỉ là chiếc xe đạp tầm thường Phượng Hoàng Trung Qu ốc
trong khi xe đạp cực tốt mang nhãn hiệu “bồrô” của Pháp là mặt
hàng bình dân ở miền Nam buôn bán đầy đường ….
- Hà Nội 1960-70:
Thập
niên 1960-70 minh chứng cho sự năng động phát triển kinh tế của Sài Gòn miền
Nam mang tầm khu vực Châu Á hướng ra thế giới là hãng Hàng Không AIR Việt Nam với
đội ngũ phi cơ phản lực mới nhất và các phi công chuyên nghiệp đường
bay quốc tế mà hãng hàng không cộng sản Trung C ộng lúc bấy giờ chưa sở
hữu được. Còn chế độ CS miền Bắc, Hà Nội thì chẳng biết
gì về hàng không dân dụng ở thời điểm ấy. Người dân và sinh viên Sài Gòn
miền Nam hoàn toàn tự do đi du học và xuất cảnh ra nước ngoài mà không bị
ràng buộc bất cứ lý do gì, đó là một điều không tưởng với nhân dân
miền Bắc… bị cô lập trong bức màn sắt CSVN.
Nói
đến hàng hóa tiêu dùng dân dụng thì tại thời điểm ấy thị trường
Sài Gòn miền Nam hàng hóa trù phú chất lượng cao, còn nhiều hơn Trung Qu ốc, tấp
nập bày bán tự do. Tại miền Bắc, Hà Nội chẳng có bất cứ một thứ
gì để mà so sánh, bởi vì người dân bình thường Sài Gòn thời điểm ấy
đang sử dụng quạt máy, tủ lạnh, máy may và TV đen trắng. Trong khi hai mặt
hàng mà bất cứ người dân miền Bắc nào cũng mơ ước (như nhà văn
Dương Thu Hương nói) là đồng hồ đeo tay và Radio thì thừa mứa ở
các quầy hàng khắp miền Nam đến nỗi các hảng sản xuất phải treo
bảng quảng cáo trên đường (trong ảnh). Nói cho vui, miền Bắc dưới
sự lãnh đạo của đảng chỉ có hai thứ mà miền Nam không có là (tên lửa
Sam 2 và phân người hoại mục).
So
với miền Nam- Ngắm nhìn hình ảnh bà con nhân dân miền Bắc và Hà Nội – CS/XHCN
với chế độ “tem phiếu” tranh nhau từng chiếc “lốp”
xe đạp, mảnh thịt, lạng đường, hộp diêm ngày đó… mà buồn
nản đến nao lòng.
Cụ
thể hơn, Sài Gòn miền Nam không cần phải CNXH hay “đấu tranh giai cấp”
nhưng nhìn hai hình ảnh dưới đây có cùng xấp xỉ thời gian thập niên 1960-70
để thấy, cùng một kiếp người “thì ai mới cần giải phóng cho ai”? (Sài Gòn phương
tiện mưu sinh gắn máy giải phóng sức người lao động mang lại hiệu
quả cao, Hà Nội công cụ mưu sinh còm cõi tiêu hao sinh lực không thấy tương lai).
- Thượng tầng cấu trúc Quốc Gia – Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam, Sài Gòn)
Thời
điểm ấy 1960-70 đầy đủ chuẩn mực, khuôn mẫu, của một
đất nước văn minh ngày hôm nay. Tổng Thống và Lưỡng viện Quốc
Hội (Thượng và Hạ Viện) – Điển hình là một cuộc họp tại
thượng nghị viện Việt Nam Cộng Hòa (ảnh). Tự Do báo chí với hơn
50 tờ báo tư nhân các loại tại Sài Gòn so với không có tờ báo tư nhân nào dưới
chế độ CSVN ngày nay, sau hơn 2/3 thế kỷ – CSVN gọi đó là thống nhất
tự do dân chủ?
Sài
Gòn miền Nam – người dân luôn được giáo dục nhắc nhở phải tôn
trọng tri ân tưởng nhớ công lao các anh hùng tiền nhân của dân tộc, uống nước
nhớ nguồn, tưởng niệm và tôn vinh, làm tấm gương soi rọi cho hậu
thế noi theo (Kỷ niệm Lễ Hai Bà Trưng giữa lòng TP/Sài Gòn- và toàn dân tưởng
nhớ đức Trần Hưng Đạo – Anh hùng Vua Lê Lợi).
- Ngược lại dưới chế độ CSVN – Đục bia xóa bỏ chiến công Hoàng Đế Quang Trung (Đền Vua Quang Trung núi Dũng Quyết), gắn thêm ngôi sao VN lên cờ trung Qu ốc, tổ chức “Đại Hội Toàn Dân, Quân VN nhớ ơn trung Qu ốc” tại thủ đô Hà Nội!? cho vui lòng “đồng chí” 4 tốt 16 vàng…
* * *
Hai
hình ảnh trên, dưới – cách nay nửa thế kỷ cho thấy 1967 nhân dân SG bất
đồng chính kiến vẫn được chính quyền Sài Gòn tôn trọng chấp nhận
cho biểu tình.
Hơn
40 năm sau, 2011, dưới chế độ CSVN tại Hà Nội – Sài Gòn, người
dân biểu tình, dù là “yêu nước” chống TQ xâm lược lại bị đàn
áp tàn bạo!
1958
– Quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa – Do QL/VNCH quản
lý. Ông Phạm Văn Đồng (CS Bắc Việt) dưới sự chỉ đạo của
ông HCM, ký công hàm xác nhận Hoàng Sa nằm trong lãnh hải Trung Qu ốc.
1974
– Hải quân Trung Qu ốc xâm lược đánh chiếm Hoàng Sa trong tay QL/VNCH – CS Bắc
Việt im lặng. Trong khi nhân dân Sài Gòn miền Nam và kiều bào hải ngoại biểu tình
lên án và phản đối hành vi xâm lược của Trung Qu ốc khắp nơi.
Những
cuộc biểu tình của đồng bào miền Nam – Việt Nam Cộng Hòa toàn quốc
và khắp nơi trên thế giới của Sinh viên và Việt kiều năm 1974 tố cáo và
phản đối Cộng Sản Trung Qu ốc xâm lược quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam.
Băng
rôn sinh viên học sinh đồng bào SàiGòn biểu tình tố cáo, phản đối Trung Qu ốc
xâm lược Hoàng Sa năm 1974:“Cương
quyết tận diệt Trung C ộng kẻ thù truyền kiếp của dân tộc”.
27-1-1973,
CSVN ký hiệp định đình chiến chấm dứt chiến tranh tại Paris.
Trong
đó Điều khoản 5 qui định: Sự tái thống nhất Việt Nam sẽ được
thực hiện từng bước bằng các biện pháp hòa bình.
Bà Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh,
lập lại
hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973).
hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973).
Tuy
nhiên – Khi Mỹ rút hết quân – 1975 cộng sản Bắc Việt xua quân tràn vào đánh
chiếm miền Nam Việt Nam, bất chấp chữ ký của họ trước đó trong
Hiệp Định Paris.
1975 – Sinh viên VN tại Pháp “để tang” cho đất nước
ngày 30/4.
Những
bánh xích chiến xa của cộng sản miền Bắc VN đã nghiền nát giấc mơ
của gần 30 triệu người miền Nam đang mang khát vọng đưa Sài Gòn và
miền Nam VN cất cánh bay lên như Singapore, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc ngày nay.
Họ,
CSVN lừa bịp dân tộc, lừa bịp quốc tế, trơ tráo xé nát Hiệp Định
Paris – Phá bỏ điều khoản 5: (Thống nhất VN bằng những giải pháp
hòa bình), họ dấu tiệt lá “cờ đỏ sao vàng” vượt vĩ tuyến
17 bằng súng đạn, xâm lược đánh chiếm miền Nam bằng lá cờ “nửa
xanh, nửa đỏ” MTGPMN. Để khỏi vướng bận và “tranh công”
vài tháng sau 30/4 họ tự động hạ cờ “xanh đỏ” giải tán “tấm
bình phong bù nhìn” MTGP/MN này.
Chính
họ – CSVN đã phạm một sai lầm “vĩ đại” bắt cả dân
tộc phải huynh đệ tương tàn hy sinh gần 5 triệu người – một
thế hệ thanh niên tinh hoa của quốc gia nằm xuống vô nghĩa, đổi lại
lấy về một giang sơn của cha ông làm hao hụt đất đai biên giới biển
trời hải đảo và còn hơn thế nữa họ đẩy người Mỹ
đi để Biển Đông trống trải không ai canh giữ, cho bọn bành trướng
Trung Qu ốc rảnh tay tự do thôn tính biển đảo quê nhà VN mà họ, CSVN, đang lực
bất tòng tâm bắt cả nước phải “Đại Hội toàn Dân-Quân VN nhớ ơn Trung Qu ốc”!
“… Và thật
chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm
hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn
lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải…”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét