Năm 1989, với việc rút quân của Việt Nam khỏi
Campuchia, quan hệ Việt Trung có cơ sở để bình thường hóa. Hội nghị Thành Đô
ngày 3-4/9/1990 là bước ngoặt của quan hệ Trung Việt. Tại đây, phía Việt Nam có
Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam. Phía Trung Quốc có Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng. Cuộc
gặp mặt này là theo sự "quân sư" của Đặng Tiểu Bình. Hai bên ký kết Kỷ yếu hội nghị đồng
thuận bình thường hóa quan hệ hai nước. Cuộc gặp mặt bí mật này không được công
bố trong nước.
Ngày 5/11/1991, Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Việt Nam và Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến thăm Trung Quốc. Ngày
7/11/1991, hiệp định mậu dịch Trung - Việt và hiệp định tạm thời về việc xử lý
công việc biên giới hai nước đã được ký tại Nhà khách quốc gia Điếu Ngư Đài,
Bắc Kinh.
…
Quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ 21 phát triển theo hướng
Việt Nam
ngày càng có quan hệ sâu rộng với Trung Quốc trong hầu hết các lĩnh vực, đặc
biệt là kinh tế và chính trị. Báo chí Việt Nam những năm gần đây luôn luôn ca
ngợi tình hữu hảo hai nước, cho dù hai bên có tranh chấp tại khu vực biển Đông
mà cả 2 nước đều tuyên bố chủ quyền. Dưới thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Việt Nam ký hai Hiệp định Biên giới trên
bộ và phân chia vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc. Theo báo chí chính thống của Việt Nam , Việt Nam có quan hệ mật thiết "môi
hở răng lạnh" với Trung Quốc. Hai nước đều do hai Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Giai
đoạn sau này đánh dấu bằng một số mốc sau:
Hiệp
định Biên giới trên Bộ Việt Trung
Các vấn đề còn nổi cộm trong quan hệ giữa hai nước bao
gồm:
Phân
chia biên giới trên biển: Đường lưỡi bò của Trung Quốc trên vùng biển mà
Việt Nam
tuyên bố chủ quyền
Chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Tháng 1/1974, hải quân Trung Quốc đụng độ với hải quân Việt Nam Cộng hòa tại
Hoàng Sa và chiếm đóng các đảo này. Năm 1988, Trung Quốc đưa quân chiếm một số đảo tại quần đảo Trường Sa.[7] Năm
2009, Trung Quốc tuyên bố lãnh thổ của họ tại biển Đông (hay Nam Trung Hoa) kéo
dài toàn bộ vùng biển này, theo hình lưỡi bò. Ngược lại, chính phủ Việt Nam cũng tuyên
bố chủ quyền với 2 quần đảo, bác bỏ những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc và
gọi đó là những tuyên bố vô căn cứ.
* * *
NHẬT KÝ ĐỐI NGOẠI CỦA LÝ BẰNG
Ngày 6/6- Thứ tư. Trời quang tạnh.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh hội kiến với Đại sứ Trương Đức
Duy tại Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn hy vọng thực hiện bình thường hoá
quan hệ giữa hai nước, hai Đảng.
Ngày 26/8- Chủ nhật. Trời mưa u ám.
Ngày 26/8- Chủ nhật. Trời mưa u ám.
Về chuyến đi của TBT ĐCSVN Nguyễn Văn Linh và những người
cùng đi đến Trung Quốc viếng thăm nội bộ, tôi đã hội báo với đồng chí
Đặng Tiểu Bình. Xét vì Á vận hội sắp khai mạc ở Bắc Kinh, mà lần gặp này
liên quan đến việc bình thường hoá quan hệ hai nước Việt Trung là sự
việc trọng đại, để tiện cho việc bảo mật, địa điểm hội đàm quyết định bố
trí ở Thành Đô.
Ngày 30/8-Thứ năm.Trời quang tạnh.
Về việc đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đi Thành Đô hội đàm
nội bộ với TBT ĐCSVN Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch HĐBT VN Đỗ Mười, đã gửi
lời mời đến phía Việt Nam. Hiện còn phải chờ xem phúc đáp của phía Việt
Nam thế nào?
Ngày 2/9 -Chủ nhật. Trời quang tạnh.
Buổi chiều, 3 giờ 30 tôi lên chuyên cơ khởi hành từ sân bay ở
ngoại ô phía tây Bắc Kinh. Khoảng gần 6 giờ đến sân bay Thành Đô. Tôi đi
ô tô mất khoảng 20 phút đến Khách sạn Kim Ngưu. Bí thư Tỉnh uỷ Dương
Nhữ Đại chờ đón tôi tại đó. Đồng chí Giang Trạch Dân đi một chuyên cơ
khác, đến Thành Đô muộn hơn tôi 30 phút. Buổi tối từ 8 g30 đến 11g tôi
và đồng chí Giang Trạch Dân trao đổi ý kiến về phương châm hội đàm với
phía Việt Nam ngày mai.
Ngày 3/9 Thứ hai. Thành Đô trời tạnh sáng.
Buổi sáng tôi đến chỗ đồng chí Giang Trạch Dân cùng đồng
chí ấy tiếp tục nghiên cứu phương châm sẽ hội đàm với phía Việt Nam vào
buổi chiều.
Khoảng gần 2g chiều, TBT ĐCSVN Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch
HĐBT Đỗ Mười và Cố vấn BCHTƯ ĐCSVN Phạm Văn Đồng đến khách sạn Kim
Nguu, Thành Đô. Đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đón tiếp họ ở sảnh tầng
1. Nguyễn Văn Linh mặc Âu phục màu cà phê, phần nào có phong độ như một
học giả. Đỗ Mười thân thể tráng kiện, đầu tóc bạc trắng, vận âu phục
xanh lam. Cả hai người đều vào khoảng 73-74 tuổi. Còn Phạm Văn Đồng cả
hai mắt bị lòng trắng che, thị lực rất kém, mặc áo kiểu đại cán xanh
lam, giống như một lão cán bộ Trung Quốc.
Buổi chiều, hội đàm bắt đầu. Nguyễn Văn Linh nói trước một
thôi dài. Tuy nói nguyện vọng muốn nhanh chóng giải quyết vấn đề
Campuchia, đồng thời nói việc thành lập Họi đồng Tối cao Campuchia là
việc cấp thiết trước mắt, không nên loại bỏ bất cứ một bên nào, nhưng
lại tỏ ý không muốn can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia. Xem
ra, vấn đề Campuchia Nguyễn Văn Linh chỉ muón tỏ một thái độ về nguyên
tắc mà đặt trọng điểm vào việc bình thường hoá quan hệ Trung Việt.
Hội
đàm diễn tiến đến tận 8g tối. 8g30 mới chiêu đãi cơm tối. Trên bàn ăn
tôi và đồng chí Giang Trạch Dân lại từng người làm việc với Đỗ Mười và
Nguyễn Văn Linh.
Ngày 4/9. Thứ ba. Trời âm u.
Buổi sáng chúng tôi tiếp tục họp với các đồng chí lãnh đạo
Việt Nam. Đến lúc đó những vấn đề hội nghị đề xuất có thể nói là đã đạt
được nhận thức chung một cách đầy đủ, quyết định khởi thảo một bản Kỷ yếu của Hội nghị.
Buổi chiều, 2g30 tại sảnh tầng 1 khách sạn Kim Ngưu hai
bên Trung Việt cử hành nghi thức ký kết chính thức. Hai bên riêng biệt
do Tổng Bí thư và Thủ tướng ký. Đây là bước ngoặt mang tính lịch sử của
quan hệ hai nước Trung Việt. Đồng chí Giang Trạch Dân đương diện tặng
các đồng chí Việt Nam một câu thơ:
度尽劫波兄弟在,相逢一笑泯恩仇 (*)
Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu.
(Câu này trích thơ Lỗ Tấn)(*)
Dịch: Sau kiếp nạn anh em còn đó, Trông nhau cười, thù oán sạch không !
Kiếp ba : (Thật ngữ Phật giáo), phiên âm Phạn ngữ Kapla có nghĩa là một thời kỳ rất dài (x. Từ điển Phật học Hán Việt. Kim Cương Tử Chủ biên.Tái bản có bổ sung. H.,Nxb.KHXH,1998), tr.609.
Về việc ấy, các đồng chí Việt Nam tỏ ý rất vui thích.
(*) Trích thơ Lỗ Tấn鲁迅: 题三义塔/ Đề Tam Nghĩa tháp (1933).Dịch: Sau kiếp nạn anh em còn đó, Trông nhau cười, thù oán sạch không !
Kiếp ba : (Thật ngữ Phật giáo), phiên âm Phạn ngữ Kapla có nghĩa là một thời kỳ rất dài (x. Từ điển Phật học Hán Việt. Kim Cương Tử Chủ biên.Tái bản có bổ sung. H.,Nxb.KHXH,1998), tr.609.
* * *
ĐỌC LẠI HỒ SƠ BÁN NƯỚC: HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ 1990
Bài 1
VỀ HỘI NGHỊ CẤP CAO
VIỆT - TRUNG TẠI THÀNH ĐÔ - TRUNG QUỐC
Hồi ký "Hồi Ức và Suy Nghĩ" của Trần Quang Cơ
nhà báo Trần Quang Thành giới thiệu
LỜI
GIỚI THIỆU: Từ đầu năm 2004, giới cán bộ ngoại giao rồi giới trí thức ở
Việt Nam đã chuyền tay nhau tập hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần
Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao. Tập hồi ký 82 trang (khổ A4,
viết xong lần thứ nhất năm 2001, hoàn thành tháng 5-2003) chưa được
xuất bản công khai. Với nội dung phong phú, chính xác và trung thực, tác
giả cung cấp những thông tin quý hiếm về những vấn đề Việt Nam đương
đại.
Tác giả làm việc ở Bộ ngoại giao từ năm
1954. Năm 1968 ông tham gia Hội nghị Paris (1968-1973), cuộc đàm phán về
bình thường hoá quan hệ với Mỹ (1975-1978) và các cuộc thương lượng
giải quyết vấn đề Campuchia (thập niên 80-90 thé ký 20). Năm 1991, được
đề nghị làm Bộ trưởng Ngoại giao thay thế ông Nguyễn Cơ Thạch, ông viện
lý do “sức khoẻ” để từ chối. Cuối năm 1993, ông xin rút khỏi Ban chấp
hành Trung ương Đảng.
Những tư liệu dưới đây trích trong cuốn
hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ là những thông tin rất
quan trọng nói lên sự thật về quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong một
giai đoạn khó khăn, đồng thời về những bất đồng trong nội bộ lãnh đạo
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong lịch sử ngoại giao Việt Nam kể từ
sau sự kiện ngày 30-04-1975 đến hôm nay, sự kiện hội nghị bí mật Thành
Đô tháng 9-1990 giữa hai đoàn đại biểu cấp cao hai nước Việt – Trung để
bình thường hóa quan hệ là một thất bại nhục nhã của Việt Nam chuyển con
đường phát triển của nước dẫn đến tình hình một lần nữa Trung Quốc lại
trở thành mối uy hiếp trực tiếp và nguy hiểm nhất đối với độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và con đường phát triển của Việt Nam.
Cuộc gặp Thành Đô giữa lãnh đạo Trung-Việt (3-9-1990).
Hàng trước từ trái sang: Hoàng Bích Sơn, trưởng ban đối ngoại T.Ư.(1), Phạm Văn Đồng,
cố vấn BCHTƯ (3), Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư (4), Giang Trạch Dân (5), Lý Bằng (6), Đỗ Mười (7), Hồng Hà (9)
cố vấn BCHTƯ (3), Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư (4), Giang Trạch Dân (5), Lý Bằng (6), Đỗ Mười (7), Hồng Hà (9)
Nội dung các tư liệu này nêu bật trách
nhiệm nặng nề của hai ông Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh vào đầu thập
niên 1990 (lúc đó là Tổng bí thư và Bộ trưởng Quốc phòng) trong quan hệ
với Bắc Kinh về việc giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan
hệ Việt Trung
Vể cuộc gặp cấp cao Việt – Trung ở Thành Đô diễn ra hai ngày 3 và
4/9/1990, trong hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ, ông Trần Quang Cơ viết :
“Cuộc gặp cấp cao Việt – Trung tại Thành Đô : Ngày 29.8.90, đại sứ
Trương Đức Duy xin gặp gấp Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ
Mười chuyển thông điệp của Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý
Bằng mời Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm
Văn Đồng sang Thành Đô , thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc ngày 3.9.90
để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ
hai nước. Trương nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp anh Tô (Cố vấn
Phạm Văn Đồng). Trung Quốc còn lấy cớ ở Bắc Kinh đang bận chuẩn bị tổ
chức ASIAD (Á Vận hội) nên không gặp cấp cao Việt Nam ở thủ đô Bắc Kinh
được vì khó giữ được bí mật, mà gặp ở Thành Đô."
Theo ông Trần Quang Cơ :
"Đây quả là một sự chuyển biến đột ngột của phía Trung Quốc. Trước đây
Trung Quốc nói không chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia mới
gặp cấp cao ta và mới bàn vấn đề bình thường hoá quan hệ. Năm ngày trước
– ngày 24.8.90 – Trung Quốc còn bác bỏ việc gặp cấp cao, nay lại mời ta
gặp cấp cao trong một thời hạn rất gấp và đồng ý cấp cao sẽ nói chuyện
về cả hai vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ".
Thái độ “ thiện chí ” gấp gáp như vậy của Bắc Kinh không phải tự nhiên
mà có. Nó có những nguyên nhân sâu xa và nhân tố bức bách :
a. Tất cả những hoạt động đối ngoại và đối nội của Trung Quốc trong hơn
10 năm qua khẳng định chiến lược nhất quán của họ là kiên quyết thực
hiện “ 4 hiện đại ”, biến Trung Quốc thành một cường quốc hàng đầu trên
thế giới, đồng thời xác định vị trí nước lớn của mình trước hết ở Đông
Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương. Vì lợi ích chiến lược đó, Trung Quốc
kiên trì tranh thủ Mỹ, Nhật, phương Tây, đồng thời bình thường hoá quan
hệ với Liên Xô.
Nhưng sau hơn 10 năm cải cách và mở cửa, tình hình chính trị, xã hội và
kinh tế của Trung Quốc rất khó khăn. Sau sự kiện Thiên An Môn, mục tiêu
chiến lược đó đang bị đe doạ nghiêm trọng. Về đối ngoại, bị Mỹ, Nhật và
phương Tây thi hành cấm vận. Trong khi đó, quá trình cải thiện quan hệ
Mỹ-Xô tiến triển rất nhanh. Xô-Mỹ hợp tác chặt chẽ giải quyết các vấn đề
thế giới và khu vực không kể đến vai trò của Trung Quốc. Ngay trong vấn
đề Campuchia, vai trò Trung Quốc cũng bị lấn át (Xô-Mỹ tiếp xúc trao
đổi chặt chẽ về vấn đề Campuchia, cuộc gặp Sihanouk – Hun Xen ở Tokyo là
do sự dàn xếp của Mỹ, Nhật và Thái, ngoài ý muốn của Trung Quốc).
Phương Tây tiếp tục đòi Trung Quốc thực hiện dân chủ và giải quyết vấn
đề Campuchia trên cơ sở kiềm chế Khmer Đỏ.
b. Chuyến đi Đông Nam Á của Lý Bằng (6-13.8.90) nằm trong yêu cầu chiến
lược của Trung Quốc tranh thủ hoàn cảnh quốc tế hoà bình để thực hiện
“ 4 hiện đại ”, diễn ra trong bối cảnh liên minh Trung Quốc xây dựng ở
Đông Nam Á trong 10 năm qua để chống Việt Nam đang tan vỡ sau khi Việt
Nam rút quân khỏi Campuchia và sau khi Mỹ đã điều chỉnh chính sách. Cuộc
đi thăm của Lý đã bộc lộ những điểm đồng và bất đồng giữa Trung Quốc và
các nước ASEAN. Các nước ASEAN vẫn rất lo ngại lý do bành trướng của
Trung Quốc. Trung Quốc buộc phải cam kết nội bộ các nước trong khu vực,
ủng hộ các đảng cộng sản và vấn đề Hoa kiều, tuyên bố sẵn sàng thương
lượng và hợp tác về vấn đề Trường Sa. Tiếp tục đối đầu với Việt Nam
không còn phù hợp với chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc lúc này nữa.
c. Sau khi Việt Nam đã hoàn tất việc rút quân khỏi Campuchia, các nước
phương Tây, Mỹ, Nhật, ASEAN đi vào cải thiện quan hệ với ta theo hướng
không có lợi cho tính toán của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Trước tình hình
đó, Trung Quốc không muốn chậm chân.
d. Về thời điểm : trong cuộc họp ngày 27 và 28.8.90 tại Nữu Ước, P5 đã
thoả thuận văn kiện khung về giải pháp toàn bộ cho vấn đề Campuchia (gồm
các vấn đề : các lực lượng vũ trang Campuchia, tổng tuyển cử dưới sự
bảo trợ của LHQ, nhân quyền và bảo đảm quốc tế đối với thể chế tương lai
của Campuchia). Văn kiện về nhân quyền không đề cập trực tiếp đến vấn
đề diệt chủng, chỉ nói Campuchia sẽ “ không trở lại chính sách và hành
động trong quá khứ ”.
Còn Trung Quốc buộc phải nhân nhượng không còn đòi lập chính phủ liên
hiệp 4 bên ngang nhau, phải chấp nhận vai trò lớn của LHQ. P5 thoả thuận
lịch giải quyết vấn đề Campuchia : trong tuần từ 3.9 đến 9.9 họp các
bên Campuchia ở Jakarta để lập SNC trước phiên họp Đại hội đồng LHQ,
tiếp đó họp mở rộng với các nước trong khu vực (có Trung Quốc), đến
khoảng tháng 10-11.90 họp uỷ ban Phối hợp Hội nghị Paris về Campuchia để
soạn thảo Hiệp định trên cơ sở văn kiện khung do P5 vạch ra, các ngoại
trưởng ký Hiệp định ; 15 nước trong Hội đồng Bảo An thông qua.
Trung Quốc đặt cuộc gặp cấp cao Trung-Việt trong cái khung thời gian
này. Tuy nhiên Bắc Kinh giấu không cho ta biết gì về những thoả thuận
giữa họ và các nước lớn trong Hội đồng bảo an, mặt khác cũng giữ kín
cuộc hẹn gặp ta ở Thành Đô vì không muốn làm cho phương Tây và ASEAN lo
ngại khả năng đoàn kết hợp tác giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Ngày 30.8.90, Bộ Chính trị họp bàn về việc gặp lãnh đạo Trung Quốc. Anh Linh nêu ý kiến là sẽ bàn hợp tác với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc,
và hợp tác giữa Phnom Penh và Khmer Đỏ để giải quyết vấn đề Campuchia,
mặc dù trước đó Bộ Ngoại Giao đã trình bày đề án nêu rõ là rất ít khả
năng thực hiện phương án này vì phương hướng chiến lược của Trung Quốc
vẫn là tranh thủ phương Tây phục vụ “ 4 hiện đại ”.
Anh Lê Đức Anh bổ sung ý anh Linh : “ Phải nói về hoà hợp dân tộc thực
sự ở Campuchia. Nếu không có Pol Pot thì vẫn tiếp tục chiến tranh ”. Anh
Võ Chí Công không đồng ý, nói : “ Trung Quốc sẽ không nghe ta về hợp
tác bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc muốn tranh thủ phương Tây ”.
Anh Thạch cảnh giác : “ Vẫn có 3 khả năng về quan hệ giữa ta và Trung
Quốc, không phải chỉ là khả năng tốt cả. Dự kiến Trung Quốc sẽ nêu công
thức “ SNC 6+2+2+2 ” để nhấn rõ là có 4 bên Campuchia (trong đó Khmer đỏ
là 1 bên), xoá vấn đề diệt chủng...” Sự thực sau này cho thấy Trung
Quốc còn đòi cao hơn thế !
Ngày 2.9.90, ba đồng chí lãnh đạo cao cấp của ta đến Thành Đô đúng hẹn.
Tháp tùng có Hồng Hà - Chánh Văn phòng Trung ương, Hoàng Bích Sơn -
Trưởng ban Đối ngoại, và Đinh Nho Liêm – Thứ trưởng Bộ Ngoại Giao. Đáng
chú ý là trong đoàn không có bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch.
Sau 2 ngày nói chuyện (3-4.9.90), kết quả được ghi lại trong một văn bản
gọi là“ Biên bản tóm tắt ” gồm 8 điểm. Khi nghiên cứu biên bản 8 điểm
đó, chúng tôi nhận thấy có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1
điểm nói về cải thiện quan hệ giữa hai nước mà thực chất chỉ là nhắc lại
lập trường cũ Trung Quốc gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với bình
thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Trong 7 điểm về Campuchia, 2 điểm là những điểm có tính chất chung về
mặt quốc tế mà 2 bên đang còn tranh cãi (giải pháp chính trị toàn diện
cho vấn đề Campuchia ; rút hết quân Việt Nam ở Campuchia có dẫn chứng),
còn 5 điểm thì hoàn toàn là đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc. Không có
điểm nào theo yêu cầu của ta cả. Trong bản thoả thuận, vấn đề nổi cộm
nhất là điểm 5 về việc thành lập SNC.
Lãnh đạo ta đã thoả thuận dễ dàng, không do dự (!), công thức
“ 6+2+2+2+1 ” (phía Phnom Penh 6 người ; phía “ 3 phái ” 7 người ; 2 của
Khmer đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk và bản thân Sihanouk)
mà Từ Đôn Tín vừa đưa ra ở Hà Nội và bị tôi bác. Công thức này bất lợi
cho Phnom Penh, với công thức “6+6” hay “6+2+2+2”, tức là hai bên có số
người ngang nhau mà Sihanouk và Hun Xen đã thoả thuận ở Tokyo.
Về sáng kiến “ giải pháp Đỏ ” cho vấn đề Campuchia mà lãnh đạo ta đưa
ra, tưởng như phía Trung Quốc sẽ nhiệt liệt hoan ngênh, song Lý Bằng đã
bác đi: “Các đồng chí nói cần thực hiện 2 đảng cộng sản hợp tác với
nhau để phát huy hơn nữa. Tôi đồng ý một phần và không đồng ý một phần.
Bốn bên Campuchia, xét về lực lượng quân sự và chính quyền, mạnh nhất là
hai đảng cộng sản, có vai trò nhiều hơn. Nhưng phần tôi không đồng ý là
ở Campuchia không chỉ có hai đảng cộng sản mà còn có các thế lực khác
là lực lượng của Sihanouk và lực lượng của Son San. Lực lượng của họ
không lớn lắm nhưng họ được quốc tế ủng hộ. Bài xích họ thì cô lập SNC,
không thể đoàn kết Campuchia. Cần phải để cho hai bên kia phát huy tác
dụng ở Campuchia ”.
Và Giang Trạch Dân cùng nói thêm : “ Các nước phương Tây rất chú ý
tới quan hệ của chúng ta. Các đồng chí đến đây, cho đến nay các nước
không ai biết, cũng không cho các bên Campuchia biết. Chúng tôi cảnh
giác vấn đề này. Họ cho rằng Việt nam XHCN, Trung Quốc XHCN đều do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, họp với nhau bàn cái gì đây ? Vì vậy chúng tôi giữ
kín chuyến đi này. Tình hình quốc tế hiện nay nếu để hai đảng cộng sản
bắt tay nhau là sách lược không lợi cho chúng ta ”.
Thành Đô là thành công hay là thất bại của ta ?
Ngay say khi ở Thành Đô về, ngày 5.9.90 anh Linh và anh Mười, có thêm
anh Thạch và Lê Đức Anh, đã bay sang Phnom Penh thông báo lại với Bộ
Chính trị Campuchia nội dung cuộc gặp gỡ cấp cao Việt-Trung.
Để thêm sức thuyết phục Phnom Penh nhận Thoả thuận Thành Đô, anh Linh nói với lãnh đạo Campuchia : “Phải
thấy giữa Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề
Campuchia. Ta phải có sách lược lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh
với Trung Quốc đến mức xô đẩy họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc”.
Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương Tây muốn cơ
hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng
sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta
phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.”
Nhưng câu trả lời của Heng Somrin, thay mặt cho lãnh đạo Campuchia, vẫn là : “ Phải
giữ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của chúng ta. Những
vấn đề nội bộ liên quan đến chủ quyền CPC phải do các bên CPC giải
quyết ”.
Về “ giải pháp Đỏ ”, Phnom Penh nhận định : “ Trung Quốc không muốn
hai phái cộng sản ở Campuchia hợp tác với nhau gây phức tạp cho quan hệ
của họ với Sihanouk và với phương Tây. Vì vậy chúng tôi thấy rằng khó có
thể thực hiện “ giải pháp Đỏ ” vì “ giải pháp Đỏ ” trái với lợi ích của
Trung Quốc ”.
Mặc dù ban lãnh đạo Campuchia đã xác định rõ thái độ như vậy, song Lê Đức Anh vẫn cứ cố thuyết phục Bạn : “ Ta
nói “giải pháp Đỏ” nhưng đó là “ giải pháp Hồng ”, vừa xanh vừa đỏ.
Trước mắt không làm được nhưng phải kiên trì. Ta làm bằng nhiều con
đường, làm bằng thực tế. Các đồng chí cần tìm nhiều con đường tiếp xúc
với Khmer Đỏ. Vấn đề tranh thủ Khmer Đỏ là vấn đề sách lược mang tính
chiến lược… Nên kiên trì tìm cách liên minh với Trung Quốc, kéo Khmer Đỏ
trở về… Ta đừng nói với Trung Quốc là làm “ giải pháp Đỏ ”, nhưng ta
thực hiện “ giải pháp Đỏ ” ; có đỏ có xanh…nhưng thực tế là hợp tác hai
lực lượng cộng sản ”.
Nguyễn văn Linh bồi thêm : “ Xin các đồng chí chú ý lợi dụng mâu thuẫn, đừng bỏ lỡ thời cơ. Trung Quốc muốn đi với Mỹ, nhưng Mỹ ép Trung Quốc nên Trung Quốc cũng muốn có quan hệ tốt với Lào, Việt Nam và Campuchia. Nếu ta có sách lược tốt thì ta có giải pháp Đỏ."
Theo báo cáo của đại sứ Ngô Điền, thái độ của bạn Campuchia đối với ta
từ sau Thành Đô có đổi khác. Về công khai, bạn cố tránh tỏ ra bị lệ
thuộc vào Việt Nam. Trên cơ sở tính toán về lợi ích của mình, bạn tự
quyết định lấy đối sách, không trao đổi trước với ta, hoặc quyết định
trái với sự gợi ý của ta trên nhiều việc.Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành
Đô, ta đã mắc lỡm với Trung Quốc ít nhất trên 3 điểm :
* Trung Quốc nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề Campuchia và
vấn đề bình thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn vấn đề Campuchia,
còn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn nhắc lại lập
trường cũ là có giải quyết vấn đề Campuchia mới nói đến chuyện bình
thường hoá quan hệ hai nước ;
* Trung Quốc nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp cố vấn Phạm Văn
Đồng, nhưng đó chỉ là cái “ mồi ” để kéo anh Đồng tham gia gặp gỡ cấp
cao.
* Trung Quốc nói giữ bí mật việc gặp cấp cao hai nước, nhưng ngay sau
cuộc gặp hầu như tất cả các nước đã được phía Trung Quốc trực tiếp hay
gián tiếp thông báo nội dung chi tiết bản thoả thuận Thành Đô theo hướng
bất lợi cho ta.
Ngày 7.9.90 Bộ chính trị đã họp thảo luận về kết quả cuộc gặp cấp cao
Việt-Trung và cuộc gặp cấp cao Việt- Campuchia sau đó, và quyết định
ngay hôm sau Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc thông báo lại lập trường của
Campuchia ; đồng thời thông báo với Liên Xô, Lào như đã thông báo với
Campuchia.
Nếu có ai hỏi về công thức “ 6+2+2+2+1 ”, nói không biết. Nhưng Báo
Bangkok Post ngày 19.9.90 trong bài của Chuchart Kangwaan đã công khai
hoá bản Thoả thuận Thành Đô, viết rõ Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc
về thành phần SNC của Campuchia sẽ gồm 6 người của Nhà nước
Campuchia, 2 của Khmer đỏ, 2 của phái Son San, 2 của phái Sihanouk,
thành viên thứ 13 là Hoàng thân Sihanouk giữ chức Chủ tịch Hội đồng.
Tạp chí Kinh tế Viễn Đông (FEER) số 4/10 (10.10.90) đăng bài Củ cà-rốt
và cái gậy viết về cuộc gặp gỡ cấp cao Trung-Việt ở Thành Đô giữa Tổng
Bí Thư Đảng và Thủ tướng hai nước, cho biết hai bên đã thoả thuân công
thức “ 6+6+1 ” về việc lập SNC.
Phía Việt Nam có nhượng bộ nhiều hơn. Việc Ngoại trưởng hai nước không
dự họp cấp cao là đáng chú ý. Bên trong, Trung Quốc nói họ coi ông Thạch
là người có quan điểm cứng rắn về vấn đề Campuchia cũng như đối với
Trung Quốc.
Ngày 12.10.90, nhà báo Nayan Chanda nói với anh Thạch : “ Trung Quốc
đang tuyên truyền rộng rãi là lãnh đạo Việt Nam đánh lừa mọi người, họ
ký kết với lãnh đạo Trung Quốc về thành phần SNC nhưng đã không thực
hiện thoả thuận cấp cao Việt-Trung. Việt Nam lại còn xúi dục chính quyền
Phnom Penh chống việc bầu Sihanouk làm chủ tịch SNC và đưa ra hết điều
kiện này đến điều kiện khác.”
Ngày 5.10.90, anh Nguyễn Cơ Thạch gặp Ngoại trưởng Mỹ Baker.
Baker cho biết là sau khi cuộc họp các bên Campuchia ở Bangkok vừa qua
thất bại, Trung Quốc rất bất bình với lãnh đạo Việt Nam. Trung Quốc cho
rằng lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đã hoàn toàn đồng ý với đề nghị của
Trung Quốc về con số 13 thành viên của SNC nhưng lại nói với Phnom Penh
là công thức đó là ý kiến riêng của Trung Quốc, đã không làm gì để thúc
đẩy Phnom Penh thực hiện thoả thuận giữa cấp cao hai nước. Không thể tin
được ngay cả lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam cũng như Bộ Ngoại giao
Việt Nam.
Baker còn nói rằng Trung Quốc đã bác bỏ đề nghị của lãnh đạo cấp cao
nhất của Việt Nam là Việt Nam và Trung Quốc đoàn kết bảo vệ CNXH chống
âm mưu của đế quốc Mỹ xoá bỏ CNXH cũng như đề nghị của Việt Nam về giải
pháp dựa trên liên minh giữa Phnom Penh và Pol Pot.
Còn Lý Bằng trong khi trả lời phỏng vấn của Paisai Sricharatchang, phóng
viên tờ Bangkok Post tại Bắc Kinh, ngày 24.10.90, đã xác nhận có một
cuộc gặp bí mật giữa lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam hồi đầu tháng 9 và
cho biết kết quả cuộc gặp đã được phản ảnh qua cuộc họp giữa các bên
Campuchia ngày 10.9.90 tại Jakarta. Trong khi nói không biết chắc phía
Việt Nam đã cố gắng thuyết phục Phnom Penh đến đâu, Lý nhận định là Hà
Nội chắc chưa làm đủ mức. Điều đó có thể thấy được qua việc Phnom Penh
đã có “ một thái độ thiếu hợp tác ”.
Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta.
Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ
giương cao ngọn cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho
cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm hoạ “
diễn biễn hoà bình ” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó
đã dẫn đến sai lầm Thành Đô cũng như sai lầm “ giải pháp Đỏ ”.
Sau Thành Đô, trong Bộ Chính trị đã có nhiều ý kiến bàn cãi về chuyến đi
này. Song mãi đến trước Đại hội VII, khi Bộ Chính trị họp (15-17.5.91)
thảo luận bản dự thảo Báo cáo về tình hình thế giới và việc thực hiện
đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương hướng tới, cuộc gặp cấp cao
Việt Nam - Trung Quốc ở Thành Đô mới lại được đề cập tới khi bản dự
thảo báo cáo của Bộ Ngoại Giao có câu “ có một số việc làm không đúng
với các Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia ”.
Cuộc họp này đầy đủ Tổng Bí Thư Nguyễn văn Linh, các cố vấn Phạm văn
Đồng, Võ Chí Công, các uỷ viên BCT Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Cơ
Thạch, Lê Đức Anh, Mai Chí Thọ, Nguyễn Đức Tâm, Đào Duy Tùng, Đồng Sĩ
Nguyên, Đoàn Khuê, Nguyễn Thanh Bình.
Anh Tô nói :
“ Có thời giờ và có cơ hội đem ra kiểm điểm những việc vừa qua để
nhận định sâu sắc thì tốt thôi. Sau chuyến đi Thành Đô, tôi vẫn ân hận
về thái độ của mình. Nói là tự kiểm điểm thì tự kiểm điểm. Tôi ân hận là
ở hai chỗ.
Lúc ở Thành Đô, khi bàn đến vấn đề Campuchia, người nói là anh Linh.
Anh Linh nói đến phương án hoà giải dân tộc Campuchia. Sau đó Lý Bằng
trình bày phương án “ 6+2+2+2+1 ” mà Từ Đôn Tín khi đàm phán với anh Cơ ở
Hà Nội đã ép ta nhận song ta bác. Anh Linh đã đồng ý (nói không có vấn
đề). Lúc đó có lẽ do thấy thái độ của tôi, Giang mời tôi nói. Tôi nói :
tôi không nghĩ phương án 13 này là hay, ý tôi nói là không công bằng...
Tôi ân hận là lẽ ra sau đó đoàn ta nên hội ý lại sau bữa tiệc buổi tối.
Nhưng tôi không nghĩ ra, chỉ phân vân. Sáng sớm hôm sau, mấy anh bên
Ban Đối Ngoại và anh Hồng Hà nói nhỏ với tôi là cốt sao tranh thủ được
nguyên tắc “ consensus ” (nhất trí), còn con số không quan trọng. Tôi
nghe hơi yên tâm nhưng vẫn nghĩ có hội ý vẫn hơn. Sau đó, Trung Quốc đưa
ký bản thoả thuận có nói đến con số 13… Tôi phân vân muốn được biết nội
dung trước khi ta hạ bút ký. Nếu như đoàn ta trao đổi với nhau sau
phiên họp đầu, sau khi Lý Bằng đưa ra công thức 6+2+2+2+1 thì ta có thể
có cách bàn thêm với họ.
Hai là trước khi ký văn bản do chuyên viên hai bên thoả thuận, các
đồng chí lãnh đạo cần xem lại và bàn bạc xem có thể thêm bớt gì trước
khi ký. Nghĩ lại, khi họ mời Tổng Bí Thư, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ta
sang gặp Tổng Bí Thư, Chủ tịch Quốc vụ viện, lại mời thêm tôi. Tôi khá
bất ngờ, không chuẩn bị kỹ. Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng, cơ
hội lớn, nên đi. Nhưng đi để rồi ký một văn bản mà ta không lường trước
hậu quả về phản ứng của Bạn Campuchia, rất gay gắt. Tôi hiểu là Bạn khá
bất bình, thậm chí là uất nhau. Cho ta là làm sau lưng, có hại cho người
ta.”
Anh Linh : “ Anh Tô nhớ lại xem. Không phải tôi đồng ý, tôi chỉ nói
ta nghiên cứu xem xét và cuối cùng đặt vấn đề thông báo lại Campuchia…
Bây giờ tôi vẫn nghĩ thế là đúng. Tôi không thấy ân hận về việc mình
chấp nhận phương án 13… Vấn đề Campuchia dính đến Trung Quốc và Mỹ. Phải
tính đến chiến lược và sách lược. Phải tiếp tục làm việc với Campuchia
về chiến lược, phải có nhiều biện pháp làm cho bạn thấy âm mưu của đế
quốc Mỹ chống phá chủ nghĩa xã hội ở châu Á, cả ở Cuba. Nó đã phá Trung
Quốc qua vụ Thiên An Môn rồi, nay chuyển sang phá ta… Trung Quốc muốn
thông qua Khmer Đỏ nắm Campuchia. Song dù bành trướng thế nào thì Trung
Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa.”
Anh Thạch : “ Về chuyện Thành Đô, Trung Quốc đã đưa cả băng ghi âm
cuộc nói chuyện với lãnh đạo ta ở Thành Đô cho Phnom Penh. Hun Xen nói
là trong biên bản viết là “ hai bên đồng ý thông báo cho Campuchia
phương án 6+2+2+2+1” nhưng băng ghi âm lại ghi rõ anh Linh nói là “
không có vấn đề gì ”.
Tôi xin trình bày để các anh hiểu nguyên do con số 13 là từ đâu. Tại
Tokyo tháng 6.90, Sihanouk và Hun Xen đã thoả thuận thành phần SNC gồm
hai bên ngang nhau = 6+6. Từ Đôn Tín sang Hà Nội, ép ta nhận công thức
6+2+2+2+1 không được. Đến cuộc gặp Thành Đô, Trung Quốc lại đưa ra. Khi
ta sang Phnom Penh để thuyết phục bạn nhận con số 13 với nguyên tắc làm
việc consensus trong SNC, anh Hun Xen nói riêng với tôi : chúng tôi
thắng mà phải nhận số người ít hơn bên kia (bên ta 6, bên kia 7) thì
mang tiếng Campuchia bị Việt nam và Trung Quốc ép. Như vậy, dù là
consensus cũng không thể thuyết phục nhân dân Campuchia được. Chỉ có thể
nhận 12 hoặc 14 thành viên trong Hội đồng Dân tộc Tối cao. Phải nói là
Phnom Penh thắc mắc nhiều với ta. Liên Xô, Anh, Pháp, Nhật, Mỹ đều cho
ta biết là Trung Quốc đã thông báo cho họ đầy đủ về Thoả thuận Thành Đô
và nói với họ là lãnh đạo Việt Nam không đáng tin cậy. Trung Quốc đã sử
dụng Thành Đô để phá quan hệ của ta với các nước và chia rẽ nội bộ ta…”
Hôm sau, Bộ Chính trị họp tiếp,
anh Mười nói : “ Ta tán thành Sihanouk làm chủ tịch Hội đồng Dân tộc
Tối cao, Hun Xen làm phó chủ tịch, lấy nhất trí trong Hội đồng Dân tộc
Tối cao làm nguyên tắc. Đây không phải là một nhân nhượng… Nếu có anh
Thạch đi Thanh Đô thì tốt hơn…”
Anh Tô : “ Vấn đề chủ yếu không phải là thái độ của ta ở Thành Đô như
anh Mười nói, mà là kết quả và tác động đến bạn Campuchia đánh giá ta
như thế nào ? Ở Thành Đô, điều ta làm có thể chứng minh được nhưng
Cam-puchia cho là ta giải quyết trên lưng họ. Vì vậy mà tôi ân hận. Tôi
ân hận là về sau này sẽ để lại hậu quả.”
Anh Mười : “ Với tinh thần một người cộng sản, tôi cho là ta không
sai. Ban Campuchia nghĩ gì về ta là quyền của họ. Với tinh thần một
người cộng sản, ta không bao giờ vi phạm chủ quyền của bạn.”
Anh Thạch : “ Họp Bộ Chính trị để kiểm điểm, tôi xin được nói thẳng.
Có phải khi đi Thành Đô về, anh Đỗ Mười có nói với tôi là hai ông anh
nhận hơi sớm. Anh Linh nhận công thức 13 và anh Tô nhận consensus
(nguyên tắc nhất trí) ” .
Anh Võ Văn Kiệt : “ Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô
trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp anh Đặng thì anh Tô đi là đúng. Tôi
nói thẳng là tôi xót xa khi biết anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ
để gặp Giang và Lý, không có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi
nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.”
Vốn là người điềm đạm, song anh Tô có lúc đã phải phát biểu : “ Mình
hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được
hay không thì không sao. Cùng lắm là nói cái đó, nhưng tôi không nghĩ
như vậy là thượng sách. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy.”
Thoả thuận Việt Nam - Trung Quốc ở Thành Đô đúng như anh Tô lo ngại đã
để lại một ấn tượng không dễ quên đối với Phnom Penh. Trong phiên họp
Quốc hội Campuchia ngày 28.2.91, Hun Xen phát biểu :
“ Như các đại biểu đã biết, vấn đề SNC này rất phức tạp. Chúng ta
phải đấu tranh khắc phục và làm thất bại âm mưu của kẻ thù nhưng bọn ủng
hộ chúng không đâu. Mặc dù Hội đồng đã được thành lập trên cơ sở 2 bên
bình đẳng nhưng người ta vẫn muốn biến thành 4 bên theo công thức
6+2+2+2+1, và vấn đề chủ tịch làm cho Hội đồng không hoạt động được ”.
Tôi còn nhớ khi tiếp tôi ở Phnom Penh, ngày 28.9.90, Hun Xen đã có những ý khá mạnh về thoả thuận Thành Đô : “ Khi
gặp Sok An ở Bangkok hôm 17.9, Trung Quốc doạ và đòi SOC phải công nhận
công thức mà Việt Nam và Trung Quốc đã thoả thuận. Nhưng Phnom Penh độc
lập. Sok An đã nói rất đúng khi trả lời Trung Quốc là ý này là của Việt
Nam không phải của Phnom Penh.”
Cuộc hội đàm Thành Đô tháng 9.90 hoàn toàn không phải là một thành tựu
đối ngoại của ta, hiện tại đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc về đối
ngoại. Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã hành
động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thoả thuận như thế sẽ được lòng
Bắc Kinh nhưng trái lại thoả thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết
vấn đề Campuchia và do đó làm việc bình thường hoá quan hệ với Trung
Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố.
Việc ta đề nghị hợp tác với Trung Quốc bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế
quốc Mỹ, thực hiện “ giải pháp Đỏ ” ở Campuchia là không phù hợp với
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị mà còn gây khó khăn với ta trong việc đa
dạng hoá quan hệ với các đối tượng khác như Mỹ, phương Tây, ASEAN, và
tác động không thuận lợi đến quan hệ giữa ta và đồng minh, nhất là quan
hệ với Liên Xô và Campuchia.
Trung Quốc một mặt bác bỏ những đề nghị đó của ta, nhưng mặt khác lại
dùng ngay những đề nghị đó chơi xấu ta với các nước khác nhằm tiếp tục
cô lập ta, gây sức ép với ta và Campuchia.
Cùng với việc ta thúc ép Phnom Penh đi vào “ giải pháp Đỏ ”, việc ta
thoả thuận với Trung Quốc công thức SNC tại Thành Đô là không phù hợp
với nguyên tắc nhất quán của Đảng ta là không can thiệp và không quyết
định các vấn đề nội bộ của Campuchia, làm tăng mối nghi ngờ vốn có của
Campuchia đối với ta, đi ngược lại chủ trương tăng cường và củng cố mối
quan hệ với ta với Campuchia và Lào.”
Trần Quang Cơ
Hồi ký “Hồi ức và Suy nghĩ” (Trích)
=======0000=======
Bài 2
VAI TRÒ VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA NGUYỄN VĂN LINH - LÊ ĐỨC ANH
TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
Hồi ký "Hồi Ức và Suy Nghĩ" của Trần Quang Cơ
nhà báo Trần Quang Thành giới thiệu
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương Đức Duy (5-6-1990) |
Lời giới thiệu : Trong cái gọi là công
cuộc đổi mới, giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam tâng bốc Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh là người khởi xướng ; còn Lê Đức Anh thì được thuộc hạ
xủng ái như môt thái thượng hoàng thời cộng sản độc quyền cai trị đất
nước. Nhưng trong hồi ký “Hồi ức và Suy nghĩ”,Nguyễn Văn Linh và Lê Đức
Anh đã bộc lộ một bộ mặt khác: Hèn nhát, bạc nhược đầu hàng quan thầy
Trung Quốc.
Chương 10 mang tựa đề “Thuốc đắng nhưng không dã được tật” nhà ngoại giao kỳ cựu Trần Quang Cơ viết :
"Sáng 30.5.90, Bộ Chính Trị họp bàn về đàm phán với Trung Quốc, Tổng bí
thư Nguyễn Văn Linh thông báo với Bộ Chính trị về cuộc họp với 2 Tổng bí
thư Đảng Lào và Đảng Campuchia ngày 20-21/5, nói là dự định sẽ gặp đại
sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Cố vấn Phạm Văn Đồng và
một số trong Bộ Chính trị tỏ ý phải thận trọng trong xử sự với Trung
Quốc.
Anh Tô nói: Mấy nghìn năm Trung Quốc vẫn là Trung Quốc, không nên cả
tin. Ta cần thăm dò thúc đẩy nhưng phải cảnh giác, đừng để hớ. Đỗ Mười
cũng khuyên anh Linh không nên gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín trước
cuộc đàm phán. Nhưng Lê Đức Anh lại tỏ ra đồng tình với dự định của anh
Linh, cho rằng phải thăm dò và phân tích chiến lược của Trung Quốc, xử
lý mối quan hệ của 3 nước lớn và 5 nước thường trực Hội đồng bảo an,
tranh thủ thế giới thứ ba, ủng hộ các nước XHCN.
Đa số trong Bộ Chính trị đều cho rằng không nên nói đến “giải pháp Đỏ” với
Trung Quốc nữa. Cuối cùng Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh kết luận lại là
anh sẽ chỉ gặp đại sứ Trung Quốc, còn không gặp Từ Đôn Tín; về phía lãnh
đạo ta, chỉ có anh Thạch tiếp Từ. Nguyễn Văn Linh còn nói khi gặp
Trương Đức Duy anh sẽ chỉ nói về hợp tác hai nước và đề nghị gặp cấp
cao, không nói đến “giải pháp Đỏ”. Nhưng trên thực tế trong cuộc gặp đại
sứ Trung Quốc vài hôm sau, Nguyễn Văn Linh đã lại nêu vấn đề đó.
Ngày 5.6.90, vài ngày trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh đã mời đại sứ Trương Đức Duy (vừa từ Bắc Kinh trở lại Hà
Nội) đến Nhà khách Trung ương Đảng nói chuyện thân mật để tỏ lòng trọng
thị đối với Bắc Kinh.
Trong cuộc gặp, như để chấp nhận lời phê bình của Đặng (nói qua Kayson), Nguyễn Văn Linh nói “Trong
quan hệ hai nước, 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái đã sửa như việc
sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp, có cái sai đang sửa”.
Anh sốt sắng ngỏ ý muốn sang gặp lãnh đạo Trung Quốc để “bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội” vì “đế
quốc đang âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội... chúng âm mưu diễn biến
hoà bình, mỗi đảng phải tự lực chống lại. Liên Xô là thành trì Xã hội
chủ nghĩa , nhưng lại đang có nhiều vấn đề. Chúng tôi muốn cùng các
người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội...
Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lãnh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi
phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi
ngay... Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ
nghĩa Mác-Lênin”.
Về vấn đề Campuchia, anh Linh đã gợi ý dùng “giải pháp Đỏ” để giải quyết: “Không
có lý gì những người cộng sản lại không thể bàn với những người cộng
sản được”, “họ gặp Sihanouk còn được huống chi là gặp lại nhau”.
Sáng 6.6.90, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh lại gặp riêng và mời cơm
đại sứ Trương Đức Duy. Cuộc gặp riêng chỉ giữa hai người, Trương Đức Duy
vốn là thông dịch, rất thạo tiếng Việt nên không cần có người làm phiên
dịch.
Nội dung cuộc gặp này mãi đến ngày 19/6 trong cuộc họp Bộ Chính trị để
đánh giá cuộc đàm phán 11-13/6 giữa tôi và Từ Đôn Tín, Lê Đức Anh mới
nói là đã gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ý mà anh Linh đã nói
với đại sứ Trung Quốc hôm trước (gặp cấp cao hai nước; hai nước đoàn kết
bảo vệ chủ nghĩa xã hội; hai nhóm cộng sản Khmer nên nói chuyện với
nhau).
Nhưng trước đó, từ ngày 6/6, phía Trung Quốc (tham tán Lý Gia Trung và
Bí thư thứ nhất Hồ Càn Văn) đã cho ta biết nội dung câu chuyện giữa Lê
Đức Anh và Trương Đức Duy.
Còn đại sứ Trung Quốc cho anh Ngô Tất Tố, Vụ trưởng vụ Trung Quốc biết
là trong cuộc gặp ông ta ngày 6/6, anh Lê Đức Anh đã nói khá cụ thể về
“giải pháp Đỏ”: “Sihanouk sẽ chỉ đóng vai trò tượng trưng, danh dự,
còn lực lượng chủ chốt của hai bên Campuchia là lực lượng Heng Somrin và
lực lượng Polpot, Trung Quốc và Việt Nam mỗi bên sẽ bàn với bạn
Campuchia của mình, và thu xếp để hai bên gặp nhau giải quyết vấn đề.
Địa điểm gặp nhau có thể ở Việt Nam, có thể ở Trung Quốc, nhưng ở Trung
Quốc là tốt hơn cả. Đây là gặp nhau bên trong, còn bên ngoài hoạt động
ngoại giao vẫn như thường... Ngày xưa Polpot là bạn chiến đấu của
tôi...”
Trưa ngày 9/6/90, Đại sứ Trương Đức Duy nói với Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại
giao ta rằng, trong cuộc gặp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, phía Trung Quốc rút ra được 3 ý kiến:
Đồng chí Nguyễn Văn Linh nói về quan hệ
hai nước rất đậm đà. Nói 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái sai như lời
nói đầu của Hiến pháp, có cái sai đang sửa. Muốn gặp cấp cao Trung Quốc
để trao đổi những vấn đề lớn trong quan hệ hai nước.
Về tình hình quốc tế: tình hình Liên xô,
Đông Âu có nhiều thay đổi. Liên Xô trước đây là thành trì của chủ nghĩa
xã hội, nay thành trì này cũng lung lay rồi. Trung Quốc cần giương cao
ngọn cờ xã hội chủ nghĩa, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Việt Nam kiên
trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Những mgười cộng sản chân chính phải đoàn kết
để bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa đế quốc luôn tấn công vào chủ
nghĩa xã hội. Chúng tuyên bố đến cuối thế kỷ này sẽ làm cho chủ nghĩa xã
hôi biến mất.
Về Campuchia: tại sao những người cộng sản không hợp tác với nhau ? Polpot và Hunxen phải hợp tác với nhau.
Chiều 10/6/90, Bí thư thứ nhất sứ quán Trung Quốc Hồ Càn Văn nói với anh Vũ Thuần, Vụ phó vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao: “Từ
Đôn Tín tuy là trợ lý ngoại trưởng nhưng là người có thực quyền trong
việc giải quyết các vấn đề châu Á. Trên khía cạnh nào đó có thể nói còn
có thực quyền hơn cả cấp thứ trưởng. Việc Từ sang Việt Nam lần này là có
sự quyết định của cấp cao nhất của Trung Quốc, chứ không phải Bộ Ngoại
giao.”
Theo Hồ Càn Văn, ngày 23/5/90 Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng
Việt Nam Vũ Xuân Vinh đã mời Tuỳ viên quân sự Trung Quốc Triệu Nhuệ đến
để thông báo là Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Quốc phòng Lê
Đức Anh sẽ tiếp Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Chính những động thái bất
thường và vượt ra ngoài khuôn khổ ngoại giao này của ta đã làm cho Trung
Quốc hiểu rằng nội bộ Việt Nam đã có sự phân hoá và vai trò của Bộ
Ngoại Giao không còn như trước.
Ngày 8/6/90, khi được biết là lần này tôi sẽ là người đứng ra thay anh
Đinh Nho Liêm đàm phán với Từ Đôn Tín. Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh
còn điện thoại dặn tôi tránh chủ động nói đến “giải pháp Đỏ”:
Việc hai bên Đỏ tiếp xúc với nhau là chuyện lâu dài, cần cho ổn định
lâu dài. Trung Quốc sẽ tác động với phía Campuchia thân Trung Quốc, ta
sẽ tác động với phía Campuchia thân ta để hai bên kiềm chế việc thù địch
nhau. Việc này phải có thời gian, không thể nhanh được, không thể đòi
họ trả lời ngay. Đừng thúc họ, cứ để họ chủ động, khi nào trả lời được
thì họ trả lời... Phải rất bí mật. Lộ ra rất nguy hiểm. Chỉ nói khi gặp
riêng chứ không nói khi đàm phán. Việc anh Nguyễn Văn Linh đặt vấn đề
với đại sứ Trương Đức Duy nói sẵn sàng đi Trung Quốc gặp cấp cao nhất,
cũng không nên hỏi lại nếu họ chưa nói tới.”
Những lời dặn dò này đối với tôi thực ra là không cần thiết, không phải
vì tôi sẵn ý thức bảo mật cao, mà bởi vì ngay từ đầu tôi đã khó chịu với
cái ý nghĩ gọi là “giải pháp Đỏ”, với ý nghĩ bắt tay với bọn diệt chủng – dù chỉ là gián tiếp - để làm vừa lòng Trung Quốc.
Nhưng sự việc trở nên phức tạp khi trưa ngày 11/6/90 sau đàm phán phiên
đầu với Từ Đôn Tín tôi về Bộ Ngoại Giao hội báo lại với anh Thạch. Anh
Thạch lúc này đang họp Hội nghị ngoại giao đánh giá tình hình Đông Âu -
Liên Xô.
Nghe tôi phản ánh tình hình đàm phán xong, anh liền gạn hỏi tôi có nói với Từ về “giải pháp Đỏ” không. Tôi nói: “Đồng chí Lê Đức Anh đã dặn phải thận trọng tránh nói đến vấn đề đó khi đàm phán.” Anh Thạch vặn lại: “Vậy đồng chí nghe theo ý kiến Bộ trưởng Quốc phòng hay ý kiến Bộ trưởng Ngoại giao ?”. Tôi đáp: “Là cán Bộ Ngoại giao, tôi sẵn sàng chấp hành ý kiến anh, với sự hiểu biết rằng anh nói với tư cách là Ủỷ viên Bộ Chính trị”.
Lúc ấy tôi thật bất ngờ trước phản ứng của anh Thạch, nhưng đồng thời
cũng cảm nhận được vết rạn nứt trong Bộ Chính trị đã khá sâu.
Phía Trung Quốc tất nhiên không để lọt hiện tượng này vì chính họ đang muốn tác động vào nội bộ ta. Chính
thái độ quá đặc biệt, quá nhún mình và cũng quá sơ hở của lãnh đạo ta
ngày 5 và 6/6/90 đã gây khó khăn không nhỏ cho ngoại giao ta trong đợt
đàm phán này.
Ngay từ hôm đầu đến Hà Nội và trong suốt mấy ngày đàm phán, Từ Đôn Tín
luôn giở giọng cao ngạo, dùng uy lực của chính lãnh đạo ta để gây sức ép
với cán bộ ngoại giao ta. Ngay trong lời đáp từ tại buổi tiệc của tôi
chiêu đãi đoàn Trung Quốc tối 9/6/90, Từ đã nói:
“Sau khi nghe đại sứ Trương Đức Duy báo cáo lại, tôi càng tăng thêm
lòng tin tưởng, tôi tin rằng đồng chí thứ trưởng Trần Quang Cơ và các
đồng chí ở Bộ Ngoại giao Việt Nam nhất định sẽ tuân theo ý nguyện và
tinh thần của các đồng chí lãnh đạo Việt Nam, cụ thể hoá vào cuộc trao
đổi với chúng tôi để chúng ta nhanh chóng giải quyết xong vấn đề”.
Vào phiên đàm phán đầu tiên, sáng 11/690, Từ đã tìm cách ghim lại những
điểm có lợi cho Trung Quốc hoặc ít nhất cũng hợp với ý đồ của họ bằng
cách nêu ra “5 nhận thức chung rất bổ ích” mà hai bên đã đạt được trong cuộc gặp ở Bắc Kinh đầu tháng 5/90:
“Hai bên đều cho rằng vấn đề Campuchia cần đạt được một giải pháp toàn diện, công bằng và hợp lý.
Phía Việt Nam bày tỏ đã rút hết quân khỏi Campuchia, chấp nhận sự kiểm chứng của LHQ và cam kết sẽ không quay lại Campuchia.
Hai bên đều cho rằng, trong thời kỳ quá độ
ở Campuchia sau khi Việt Nam rút hết quân, chấm dứt viện trợ bên ngoài
và thực hiện ngừng bắn, cần thành lập Hội đồng toàn quốc tối cao. Về
nguyên tắc, hai bên chúng ta đều tán thành Hội đồng toàn quốc tối cao
phải là cơ cấu quyền lực có thực quyền. Còn việc tổ chức Hội đồng đó thế
nào, ý kiến của hai bên cơ bản nhất trí với nhau. Ứng cử viên của Hội
đồng đó cụ thể là ai thì phải do các bên Campuchia lựa chọn. Trung Quốc,
Việt Nam tôn trọng sự lựa chọn đó. Chúng ta tán thành Hội đồng toàn
quốc tối cao không loại trừ bất cứ bên nào, cũng không để bên nào nắm
độc quyền. Về Hoàng thân Sihanouk, hai bên đều chủ trương Hoàng thân
Sihanouk làm Chủ tịch Hội đồng toàn quốc tối cao.
Vấn đề quân sự trong thời kỳ quá độ, hai
bên đều cho rằng để tránh xảy ra nội chiến và giữ hoà bình ở Campuchia,
cần có sự sắp xếp thoả đáng quân đội 4 bên Campuchia. Dĩ nhiên sắp xếp
như thế nào, hai bên chúng ta cần bàn thêm.
Còn một điểm nữa, các đồng chí Việt Nam
bày tỏ từ nay về sau sẽ không nhắc đến vấn đề diệt chủng, kể cả trong
các văn kiện quốc tế cũng không nêu nữa”.
Vì vậy Từ đề nghị tập trung bàn hai điểm tồn tại của lần gặp trước là
vấn đề phạm vi quyền lực của SNC và vấn đề lực lượng vũ trang của các
bên Campuchia trong thời kỳ quá độ.
Trong 3 ngày đàm phán, mỗi khi phía Trung Quốc thấy ta không chấp nhận
yêu sách vô lý của họ về hai vấn đề thuộc nội bộ Campuchia này, nhất là
khi ta kiên trì công thức “hai bên Campuchia” – tức là hai chính
phủ PhnomPenh và chính phủ Campuchia Dân chủ, hoặc có thể nói “các bên
Campuchia”, nhưng dứt khoát bác công thức “4 bên Campuchia” của
họ mang hàm ý chấp nhận vai trò hợp pháp của bọn Khmer đỏ và nhắc đến
thoả thuận Tokyo, thì Từ lại lên giọng chê trách tôi làm trái ngược ý
kiến của lãnh đạo Việt Nam.
Y đưa ra lập luận là lãnh đạo Việt Nam đã đưa ra ý “hợp tác giữa 2 phái cộng sản Khmer” tức là1 nhận từ “4 bên Campuchia” (có nghĩa là đưa Khmer đỏ lên ngang với Chính phủ PhnomPenh).
Từ nói: “Phát biểu của các đồng chí không nên trái ngược với các đồng
chí lãnh đạo Việt Nam. ý kiến của Bộ Ngoại giao nên nhất trí với ý của
lãnh đạo cấp cao, không nên có hai tiếng nói trái ngược”.
Tôi phải đưa Từ trở về vị trí của y: “Đồng chí có thể yên tâm, không
cần lo hộ chúng tôi là Bộ Ngoại giao có tiếng nói khác Trung ương. Đảng
chúng tôi nhất trí từ trên xuống dưới. Bộ Ngoại giao là một bộ phận chịu
sự lãnh đạo chặt chẽ của Bộ Chính Trị chúng tôi”.
Về vấn đề Hội đồng Dân tộc Tối cao Campuchia, Trung Quốc kiên trì 3 điểm:
a. SNC phải là cơ quan chính quyền tối cao
hợp pháp duy nhất, đại diện cho độc lập, chủ quyền, thống nhất của
Campuchia. Về mặt đối ngoại, đại diện cho Campuchia trên quốc tế, giữ
ghế của Campuchia ở LHQ; về mặt đối nội, thực hiện quyền lập pháp và
quản lý hành chính, trực tiếp nắm các ngành quan trọng ảnh hưởng đến
tổng tuyển cử tự do, công bằng gồm quốc phòng, ngoại giao, nội vụ, tuyên
truyền, tài chính (với hiểu ngầm là xoá 5 bộ này của chính quyền
PhnomPenh).
b. Không loại bên nào (tức là không loại Khmer Đỏ), không bên nào độc quyền.
c. Thành phần, số lượng do 4 bên Campuchia
bàn bạc và quyết định. Sihanouk làm chủ tịch SNC (thực chất là bác bỏ
Thông cáo chung Tokyo đã thoả thuận là Hội đồng gồm 12 người, chia đều
cho 2 bên, mỗi bên 6 người).
Tôi khẳng định SNC có trách nhiệm và quyền lực trong việc thực hiện các
hiệp định được ký kết về Campuchia, về hoà giải dân tộc và về tổng tuyển
cử; hai chính quyền hiện tồn tại không được làm việc gì cản trở trách
nhiệm và quyền lực trên đây của SNC. Còn việc các bên Campuchia chấp
nhận ý kiến của Trung Quốc đến đâu là quyền của các bên Campuchia, Việt
Nam và Trung Quốc không thể thay các bên Campuchia sắp đặt việc nội bộ
của Campuchia.
Về vấn đề lực lượng vũ trang, Trung Quốc
đòi ghi vào biên bản thoả thuận: quân đội của 4 bên Campuchia phải tập
kết vào những địa điểm của Ủỷ ban giám sát của LHQ chỉ định. Còn việc
giảm quân hay giải pháp thì để cho SNC hoặc chính phủ sau bầu cử quyết
định.
Tôi nói: “Việt Nam tôn trọng thoả thuận giữa các bên Campuchia ở
Tokyo là lực lượng vũ trang ở đâu đóng đó. Nguyên tắc về lực lượng vũ
trang các bên Campuchia là chấm dứt nội chiến càng sớm càng tốt, duy trì
ngừng bắn, không can thiệp vào đời sống chính trị, không can thiệp vào
tổng tuyển cử để bảo đảm cho tổng tuyển cử được thực sự tự do và công
bằng. Còn các biện pháp để thực hiện các nguyên tắc trên sẽ do các bên
Campuchia thoả thuận với nhau”.
Sau khi tỏ phản ứng về lập trường của ta, Từ nói:
“Tôi muốn nói thật rằng nếu lần này chúng ta đi một bước không hay
thì sẽ có hậu quả sau này. Không những hai chúng ta thất vọng mà kết quả
còn trái ngược với nguyện vọng của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
và các đồng chí lãnh đạo khác nói với chúng tôi. Chúng ta đang ở ngã ba
đường, lựa chọn thế nào ? Thời gian không cho phép. Trung tuần tháng 7,
5 nước Hội đồng bảo an họp lại. Trung Quốc không thể không tỏ thái độ.
Nếu Trung Quốc và Việt Nam không đạt được kết quả giải quyết vấn đề
Campuchia thì lòng mong muốn của chúng ta sẽ chịu hậu quả lớn.”
Như để thuyết phục ta chấp nhận lập trường của họ, Từ đưa ra dự kiến của Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia theo 5 bước:
Trung – Việt đạt được thoả thuận về giải pháp vấn đề Campuchia và ghi nhận lại bằng một biên bản nội bộ;
Họp ngoại trưởng 5 nước Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Inđônêxia, Lào và ra tuyên bố chung;
Họp hội nghị có tính chất khu vực giữa 5 nước trên và 4 bên Campuchia;
Họp 5 nước Hội đồng Bảo an và 4 bên Campuchia.
Họp hội nghị quốc tế Paris về Campuchia.
Từ nói chỉ trao đổi nội bộ với ta dự kiến này ở đây, không nói với 4
nước Uỷ viên thường trực Hội đồng bảo an, cũng không nói với Liên Xô để
tránh sự quấy nhiễu của bên ngoài. Tôi tránh bình luận cụ thể, chỉ nói
đây là một gợi ý thú vị, rất đáng suy nghĩ, song cần làm sao cho bước
khởi động của chúng ta ở đây có kết quả thì toàn bộ kế hoạch mới có khả
năng triển khai được.
Chiều ngày 12/6/90, theo yêu cầu của phía Trung Quốc, đã có cuộc họp hẹp
giữa hai trưởng đoàn. Qua đó Từ nhờ tôi chuyển tới lãnh đạo Việt Nam
trả lời của lãnh đạo Trung Quốc về những ý kiến mà Nguyễn Văn Linh và Lê
Đức Anh đã nói với đại sứ Trung Quốc ngày 5 và 6/6/90:
“Lãnh đạo Trung Quốc rất coi trọng quan hệ Trung – Việt, Lãnh đạo
Trung Quốc cũng rất coi trọng những ý kiến Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
và đồng chí Lê Đức Anh đã nói với đại sứ Trương Đức Duy. Phía Trung Quốc
cho rằng quan hệ Trung–Việt sớm muộn cũng sẽ bình thường hoá. Hai bên
đều cần cùng nhau cố gắng để thực hiện. Vấn đề Campuchia, cuộc chiến
tranh Campuchia đã kéo dài hơn 10 năm. Đây là vấn đề toàn thế giới quan
tâm, các nước trong khu vực, nhất là ASEAN, cũng rất quan tâm. Đối với
hai nước Trung Quốc và Việt Nam, nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết hiện
nay là trên cơ sở những nhận thức chung đã đạt được, tiếp tục trao đổi ý
kiến về hai vấn đề tồn tại (vấn đề quyền lực của Hội Đồng tối cao và
việc xử lý quân đội của các bên Campuchia), làm sao cho có tiến triển
hai vấn đề này. Nếu được như vậy, chúng ta sẽ góp phần vào việc thực sự
giải quyết vấn đề Campuchia. Bước đi này là hết sức quan trọng. Chỉ có
đi xong bước này, chúng ta mới có thể suy nghĩ đến những bước sau. Cũng
có nghĩa là chỉ có đi xong bước này lãnh đạo Trung Quốc mới suy nghĩ về
việc gặp cấp cao và việc thúc đẩy hai phái cộng sản Khmer hoà giải với
nhau”.
Nghe Từ đọc xong, tôi hỏi lại: “Như vậy có phải là chỉ sau khi giải
quyết xong vấn đề quyền lực của SNC và vấn đề lực lượng vũ trang
Campuchia thì Trung Quốc mới nghĩ đến việc gặp cấp cao?”
Từ khẳng định đúng là như vậy và nói thêm: “Giải quyết hai vấn đề đó
có nghĩa là Trung Quốc và Việt Nam đã nhất trí cơ bản về việc giải quyết
vấn đề Campuchia, sẽ làm thành biên bản chung ghi các điều đã nhất trí
làm cơ sở để thúc đẩy giải quyết vấn đề Campuchia, tác động đối với bạn
bè mỗi bên và mở đầu quá trình bình thường hoá quan hệ hai nước”.
Từ nói: “Nhất quyết phải giải quyết xong hai điểm tồn tại đó để có
được giải pháp toàn bộ, không nên vượt qua vấn đề Campuchia. Giải quyết
xong vấn đề Campuchia thì các bước tiếp theo về gặp gỡ cấp cao và bình
thường hoá quan hệ giữa hai nước sẽ dễ giải quyết”.
Ngay sau đó, tôi sang gặp Thủ tướng Đỗ Mười báo cáo tình hình cuộc đàm
phán để chuẩn bị cho việc anh ấy tiếp Từ Đôn Tín chiều hôm sau như đã dự
định. Tôi nói:
“Chỉ với việc anh Linh và anh Lê Đức Anh gặp Trương Đức Duy trước khi
Từ Đôn Tín tới Hà Nội đã làm cho phía Trung Quốc lên giọng trong đàm
phán, nay nếu anh Linh hoặc anh Mười lại tiếp hắn nữa thì rất không
nên”.
Nghe tôi trình bày xong, Đỗ Mười bảo sở dĩ anh nghĩ đến chuyện gặp Từ là
vì sáng 10/6/90, Lê Đức Anh đến yêu cầu Đỗ Mười gặp Từ, nay như vậy thì
không cần gặp nữa. Đỗ Mười bảo tôi cùng đi ngay sang báo cáo sự tình
với Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh vì anh Linh cũng dự định tiếp Từ.
Sau khi nghe tôi trình bày, có một phút lặng đi, tôi nghĩ bụng Tổng bí
thư chắc bị bất ngờ về những câu trả lời quá ư lạnh nhạt của lãnh đạo
Trung Quốc đối với những điều tâm huyết mà anh và Lê Đức Anh đã thổ lộ
với đại sứ Trương Đức Duy. Rồi anh Linh cho ý kiến là trong tình hình
này anh Mười hoặc một cấp cao khác của ta không cần tiếp Từ Đôn Tín nữa.
Ba ngày đàm phán với Từ nói chung là căng, nhưng giông tố chỉ nổ ra khi
Từ Đôn Tín đến chào Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch chiều 13/6/90 trước khi
đoàn Trung Quốc rời Hà Nội.
Ngay từ đầu không khí trò chuyện đã không lấy gì làm mặn mà lắm. Nhưng đến khi Từ nói:
“Các đồng chí nói chúng ta nên khuyên hai phái cộng sản Campuchia hoà
giải với nhau, (Hói đó là mong muốn chân thành của Việt Nam Nhưng trên
thực tế, các đồng chí cố sức tiêu diệt Khmer Đỏ. Nếu lãnh đạo Việt Nam
muốn có sự hoà giải giữa hai nhóm cộng sản Khmer thì lẽ dĩ nhiên phải
chấp nhận “4 bên”.] Chúng tôi không thể hiểu được trong hai giọng nói
đó, cái nào là thật, cái nào là giả. Nghe tiếng nói này thì tiếng nói
kia là giả dối, nghe tiếng nói kia thì tiếng nói này là giả dối. Mong
rằng sau này các đồng chí không nên làm như vậy”,
anh Thạch đã phản ứng mạnh: “Chúng tôi không đòi các đồng chí nói chỉ
có hai bên Campuchia; các đồng chí cũng không thể đòi chúng tôi nói 4
bên. Chúng tôi nói các bên, không loại bỏ bên nào là đủ rồi. Nếu nói
khác đi là chống lại Hội nghị Tokyo. Tôi nói thật, dùng thủ đoạn xuyên
tạc thì rất khó đàm phán... Tôi rất trọng đồng chí nhưng rất không hài
lòng với những điều đồng chí nói vì đồng chí có những xuyên tạc. Như thế
rất khó đàm phán”.
Cuộc nói chuyện kết thúc bằng câu “Chào Ngài ! ” của Từ Đôn Tín. Và anh Thạch cũng đáp lại bằng từ đó thay vào từ “đồng chí”.
Tôi không có mặt trong buổi anh Thạch tiếp Từ Đôn Tín, nhưng khi nghe kể lại chuyện đó tôi không hề ngạc nhiên.
Tôi nhớ như in cái giọng ngạo mạn kiểu “sứ giả thiên triều” của Từ trong buổi gặp ngày 13/6/90: “Lần
này tôi sang Hà Nội chủ yếu để bàn với các đồng chí Việt Nam về vấn đề
Campuchia, đồng thời cũng xem xét nguyện vọng của các đồng chí, chúng
tôi đã chuẩn bị ý kiến về quan hệ hai nước Trung Quốc - Việt Nam”.
Khi nói “nguyện vọng của các đồng chí” là Từ muốn nói đến những điều mà
anh Linh và Lê Đức Anh đã nói với đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy ngày 5
và 6/6/90. Đây là cuộc đàm phán giữa hai quốc gia bình đẳng, làm sao
Trung Quốc có thể nói đến chuyện “xem xét nguyện vọng” của lãnh đạo Việt
Nam được. Thêm vào đó, tâm trạng Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch trong những
ngày này lại đang nặng chĩu những suy tư khác.
Sau khi xảy ra va chạm giữa Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch và trưởng đoàn
Trung Quốc Từ Đôn Tín, sức ép vào nội bộ ta càng mạnh hơn: suốt nửa cuối
1990 đến 1991, Trung Quốc phớt lờ Bộ Ngoại giao, chỉ làm việc với Ban
Đối ngoại; Ngoại trưởng Tiền Kỳ Tham từ chối gặp Ngoại trưởng Nguyễn Cơ
Thạch tại kỳ họp Đại hội Đồng LHQ ở Nữu-ước tháng 9.90.
Trước đó, ý đồ Trung Quốc phân hoá nội bộ ta đã bộc lộ rõ: muốn ta phải
thay đổi Bộ trưởng Ngoại giao. Không chỉ thế, Trung Quốc còn lợi dụng sự
cả tin của lãnh đạo ta để phá hoại uy tín đối ngoại của ta bằng cách
dùng thủ đoạn cố ý lộ tin ra với các nước.
Liều thuốc của thày Tàu bốc cho ta thật là đắng, thế nhưng đâu có dã được tật !
Trần Quang Cơ
Hồi ký “Hồi ức và Suy nghĩ” (Trích)
===000===
Bài 3:
Bài 3:
QUỶ KẾ BÀNH TRƯỚNG, BÁ QUYỀN CỦA TRUNG QUỐC
ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ SỰ LỆ THUỘC, QUỲ PHỤC CỦA LÊ ĐỨC ANH
Hồi ký "Hồi Ức và Suy Nghĩ" của Trần Quang Cơ
nhà báo Trần Quang Thành giới thiệu
Đỗ Mười và Trương Đức Duy |
Lời giới thiệu: Đại hội lần thứ bảy Đảng
Cộng sản Việt Nam (17-27/6/1991) kết thúc, Đỗ Mười được bầu làm Tổng bí
thư, Lê Đức Anh chiếm vị trí thứ hai trong Đảng nắm giữ 3 khối quan
trọng nhất: Quốc phòng, An ninh, Ngoại giao và lên chức Chủ tịch nước,
Đào Duy Tùng là Ủy viên Bộ Chính trị, thường trực Ban bí thư.
Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng thâu tóm quyền lực cao nhất trong Đảng, nhưng thực chất người có ảnh hưởng lớn nhất là Lê Đức Anh. Từ sau Đại hội VII, bộ măt bành trướng, bá quyền của tập đòan thống trị Bắc Kinh đối với Việt Nam ngày càng quỷ quyệt, can thiệp sâu và trắng trợn vào nội bộ lãnh đạo Việt Nam. Sự quỳ phục của Lê Đức Anh ngày càng bộc lộ rõ rệt trong việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng thâu tóm quyền lực cao nhất trong Đảng, nhưng thực chất người có ảnh hưởng lớn nhất là Lê Đức Anh. Từ sau Đại hội VII, bộ măt bành trướng, bá quyền của tập đòan thống trị Bắc Kinh đối với Việt Nam ngày càng quỷ quyệt, can thiệp sâu và trắng trợn vào nội bộ lãnh đạo Việt Nam. Sự quỳ phục của Lê Đức Anh ngày càng bộc lộ rõ rệt trong việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Dưới tiêu đề “Đai hội VII và cái giá phải trả cho việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc:” trong chương 18 hồi ký “Hồi ức và Suy nghĩ”, nhà ngoại giao kỳ cựu Trần Quang Cơ viết:
“Từ 17 đến 27.6.91 Đảng Cộng sản Việt Nam họp Đại hội lần thứ VII đưa lại nhiều thay đổi quan trọng về nhân sự: Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm Tổng bí thư; Lê Đức Anh nay nghiễm nhiên giữ vị trí thứ 2 trong Đảng, Uỷ viên thường trực Bộ Chính trị kiêm Bí thư Trung ương phụ trách cả 3 khối quốc phòng – an ninh – ngoại giao và lên chức Chủ tịch nước. Võ Văn Kiệt được giới thiệu với Nhà nước cử làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Đào Duy Tùng thường trực Ban bí thư. Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng nắm bộ phận thường trực của Bộ Chính trị và của Ban Bí thư. Đại tướng Võ Nguyên Giáp bị gạt ra khỏi chức Ủỷ viên Trung ương. Còn Nguyễn Cơ Thạch bị bật ra khỏi Bộ Chính trị và chuẩn bị thôi chức Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao... (thực ra những thay đổi về nhân sự trong Bộ Chính trị đã được quyết định từ tháng 5 và Trung Quốc đã biết). Dư luận quốc tế xôn xao cho rằng Nguyễn Cơ Thạch là “vật tế thần” trong việc Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng đó mới chỉ là một cách nói đơn giản vì vấn đề không chỉ là bình thường hoá quan hệ mà là phụ thuộc hoá quan hệ.
“Từ 17 đến 27.6.91 Đảng Cộng sản Việt Nam họp Đại hội lần thứ VII đưa lại nhiều thay đổi quan trọng về nhân sự: Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm Tổng bí thư; Lê Đức Anh nay nghiễm nhiên giữ vị trí thứ 2 trong Đảng, Uỷ viên thường trực Bộ Chính trị kiêm Bí thư Trung ương phụ trách cả 3 khối quốc phòng – an ninh – ngoại giao và lên chức Chủ tịch nước. Võ Văn Kiệt được giới thiệu với Nhà nước cử làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Đào Duy Tùng thường trực Ban bí thư. Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng nắm bộ phận thường trực của Bộ Chính trị và của Ban Bí thư. Đại tướng Võ Nguyên Giáp bị gạt ra khỏi chức Ủỷ viên Trung ương. Còn Nguyễn Cơ Thạch bị bật ra khỏi Bộ Chính trị và chuẩn bị thôi chức Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao... (thực ra những thay đổi về nhân sự trong Bộ Chính trị đã được quyết định từ tháng 5 và Trung Quốc đã biết). Dư luận quốc tế xôn xao cho rằng Nguyễn Cơ Thạch là “vật tế thần” trong việc Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng đó mới chỉ là một cách nói đơn giản vì vấn đề không chỉ là bình thường hoá quan hệ mà là phụ thuộc hoá quan hệ.
Trước hết vấn đề đặt ra là ai sẽ thay anh Thạch giữ chức bộ trưởng ngoại giao ?
Từ đầu tháng 7, tôi đã nhiều lần được triệu tập lên gặp Tổng bí thư Đỗ Mười và Trưởng ban Tổ chức trung ương Lê Phước Thọ (người thay Nguyễn Đức Tâm), để được thông báo và đả thông về dự định đưa tôi làm Bộ trưởng Ngoại giao.
Lần gặp sáng ngày 10/7/91, thấy tôi vẫn từ chối, Đỗ Mười đã hiểu lầm tưởng tôi không nhận vì chưa được vào Bộ Chính trị như Bùi Thiện Ngộ - người thay Mai Chí Thọ làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ - nên hứa sẽ giải quyết chuyện đó sau khi nhận chức Bộ trưởng Ngoại giao.
Tôi nói chỉ vì lý do “sức khoẻ” mà xin không nhận:
“45 năm nay tôi liên tục công tác, cố gắng làm tốt các công việc được giao, không từ nan. Song lần này không thể nhận. Tôi chỉ có nguyện vọng và làm nốt công việc Thứ trưởng Ngoại giao. Đề nghị các anh quyết định theo phương án chúng tôi đề nghị ngày hôm qua: cử anh Vũ Oanh hay anh Vũ Khoan. Nhân đây tôi xin phản ảnh tư tưởng chung của anh em cán bộ nhân viên Bộ Ngoại giao là có sự đối xử chưa công bằng với Ngoại giao”.
Từ đầu tháng 7, tôi đã nhiều lần được triệu tập lên gặp Tổng bí thư Đỗ Mười và Trưởng ban Tổ chức trung ương Lê Phước Thọ (người thay Nguyễn Đức Tâm), để được thông báo và đả thông về dự định đưa tôi làm Bộ trưởng Ngoại giao.
Lần gặp sáng ngày 10/7/91, thấy tôi vẫn từ chối, Đỗ Mười đã hiểu lầm tưởng tôi không nhận vì chưa được vào Bộ Chính trị như Bùi Thiện Ngộ - người thay Mai Chí Thọ làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ - nên hứa sẽ giải quyết chuyện đó sau khi nhận chức Bộ trưởng Ngoại giao.
Tôi nói chỉ vì lý do “sức khoẻ” mà xin không nhận:
“45 năm nay tôi liên tục công tác, cố gắng làm tốt các công việc được giao, không từ nan. Song lần này không thể nhận. Tôi chỉ có nguyện vọng và làm nốt công việc Thứ trưởng Ngoại giao. Đề nghị các anh quyết định theo phương án chúng tôi đề nghị ngày hôm qua: cử anh Vũ Oanh hay anh Vũ Khoan. Nhân đây tôi xin phản ảnh tư tưởng chung của anh em cán bộ nhân viên Bộ Ngoại giao là có sự đối xử chưa công bằng với Ngoại giao”.
Vì sao tôi được người ta chọn để thay Nguyễn Cơ Thạch tuy biết rõ tôi có
cùng quan điểm về chính trị đối ngoại với anh Thạch ? Tôi nghĩ có 2 lý
do: một là, che đậy ý nghĩa chính trị của việc thay thế Nguyễn Cơ Thạch; hai là,
cơ chế mới về đối ngoại sau Đại hội VII có khả năng vô hiệu hoá hoàn
toàn mới chủ trương và hành động sai khác với quan điểm của mấy vị trong
Ban Thường trực Bộ Chính trị mới.
Sau khi tôi được miễn, đã có một cuộc vận động khá sôi nổi quanh vấn đề
này. Những tên tuổi như Vũ Oanh, Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Vũ Khoan,
Nguyên Dy Niên… được nói tới. Cuối cùng Nguyễn Mạnh Cầm, lúc đó đang là
Đại sứ ta tại Liên Xô được chọn, mặc dù khi ấy anh còn rất lưỡng lự.
Sau Đại hội VII, mọi vấn đề quan trọng về đối ngoại của Nhà nước đều do
Hồng Hà, Bí thư Trung ương, phụ trách đối ngoại, dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Lê Đức Anh và tất nhiên được sự tán thưởng của Tổng bí hư Đỗ
Mười, quyết định. Những phần công việc xưa nay vốn do Bộ Ngoại giao đảm
nhiệm nay đều do Hồng Hà và Ban Đối ngoại chủ trì.
Một thí dụ điển hình về vì ý đồ cá nhân họ sẵn sàng bỏ qua danh dự và quốc thể:
Ngày 5/8/91, tại cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, Hồng Hà tuyên bố:
‘Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (Đại sứ Trung Quốc), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh’.
Lê Đức Anh cho biết khi ở Trung Quốc, Phó ban Đối ngoại Trung Quốc Chu Lương có đề nghị: vì lý do kỹ thuật, quan hệ giữa hai Đảng xin làm qua Trương Đức Duy. Hôm sau, Hồng Hà với tư cách Trưởng ban Đối ngoại tiếp Đại sứ Campuchia Ouch Borith, đã thông báo:
“Theo sự phân công của Bộ Chính trị Việt Nam, từ nay đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà sẽ phụ trách việc thảo luận giải pháp Campuchia và các vấn đề liên quan. Nếu lãnh đạo Campuchia muốn bàn các vấn đề trên thì đề nghị quan hệ và thảo luận trực tiếp với 2 đồng chí đó.
Một thí dụ điển hình về vì ý đồ cá nhân họ sẵn sàng bỏ qua danh dự và quốc thể:
Ngày 5/8/91, tại cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, Hồng Hà tuyên bố:
‘Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (Đại sứ Trung Quốc), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh’.
Lê Đức Anh cho biết khi ở Trung Quốc, Phó ban Đối ngoại Trung Quốc Chu Lương có đề nghị: vì lý do kỹ thuật, quan hệ giữa hai Đảng xin làm qua Trương Đức Duy. Hôm sau, Hồng Hà với tư cách Trưởng ban Đối ngoại tiếp Đại sứ Campuchia Ouch Borith, đã thông báo:
“Theo sự phân công của Bộ Chính trị Việt Nam, từ nay đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà sẽ phụ trách việc thảo luận giải pháp Campuchia và các vấn đề liên quan. Nếu lãnh đạo Campuchia muốn bàn các vấn đề trên thì đề nghị quan hệ và thảo luận trực tiếp với 2 đồng chí đó.
Tổng bí thư Đỗ Mười gặp Đại sứ Trương Duy Đức (9/7/1991)
Ngày 9/7/91, vừa được bầu làm Tổng bí thư, Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc
Trương Đức Duy tỏ ý muốn cử Đặc phái viên đi Bắc Kinh để thông báo về
Đại hội VII và trao đổi về quan hệ giữa hai nước.
Trước đó ít ngày–ngày 11/6/91 – Bộ Ngoại giao ta cũng đã gặp đại sứ Trung Quốc đề nghị mở lại đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao hai nước.
Ngày 17/7, Trung Quốc trả lời đồng ý gặp cấp Thứ trưởng ở Bắc Kinh từ 5/8 đến 10/8.
Hai ngày sau, Trung Quốc trả lời đồng ý việc ta cử Đặc phái viên gặp lãnh đạo Trung Quốc, nhưng lại sắp xếp cuộc gặp Đặc phái viên Đảng trước cuộc gặp Thứ trưởng Ngoại giao…
Việc làm trên cho thấy một mặt Trung Quốc muốn gặp ta ở cả hai cấp, mặt khác muốn dùng những thoả thuận với cấp Đặc phái viên để ép ta trong cuộc gặp cấp Thứ trưởng Ngoại giao. Để đề cao công việc này, phía Trung Quốc đã đề nghị thay chữ “Đặc phái viên” thành “đoàn Đại diện đặc biệt của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam” tuy Đoàn chỉ có 2 thành viên là Lê Đức Anh và Hồng Hà.
Hồng Hà lúc đó là Bí thư Trung ương, phụ trách đối ngoại. Phụ tá đoàn là Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại của Đảng. Tôi nhớ khi đó Bộ Ngoại giao có đề nghị có một Thứ trưởng Ngoại giao là uỷ viên Trung ương đi với đoàn để nắm tình hình vận dụng vào cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao ngay sau đó, nhưng đề nghị không được chấp nhận. Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Đặng Nghiêm Hoành cũng không được tham dự các hoạt động của đoàn, trong khi đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, Trương Đức Duy lại có mặt trong mọi hoạt động chính thức của đoàn tại Trung Quốc.
Trước đó ít ngày–ngày 11/6/91 – Bộ Ngoại giao ta cũng đã gặp đại sứ Trung Quốc đề nghị mở lại đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao hai nước.
Ngày 17/7, Trung Quốc trả lời đồng ý gặp cấp Thứ trưởng ở Bắc Kinh từ 5/8 đến 10/8.
Hai ngày sau, Trung Quốc trả lời đồng ý việc ta cử Đặc phái viên gặp lãnh đạo Trung Quốc, nhưng lại sắp xếp cuộc gặp Đặc phái viên Đảng trước cuộc gặp Thứ trưởng Ngoại giao…
Việc làm trên cho thấy một mặt Trung Quốc muốn gặp ta ở cả hai cấp, mặt khác muốn dùng những thoả thuận với cấp Đặc phái viên để ép ta trong cuộc gặp cấp Thứ trưởng Ngoại giao. Để đề cao công việc này, phía Trung Quốc đã đề nghị thay chữ “Đặc phái viên” thành “đoàn Đại diện đặc biệt của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam” tuy Đoàn chỉ có 2 thành viên là Lê Đức Anh và Hồng Hà.
Hồng Hà lúc đó là Bí thư Trung ương, phụ trách đối ngoại. Phụ tá đoàn là Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại của Đảng. Tôi nhớ khi đó Bộ Ngoại giao có đề nghị có một Thứ trưởng Ngoại giao là uỷ viên Trung ương đi với đoàn để nắm tình hình vận dụng vào cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao ngay sau đó, nhưng đề nghị không được chấp nhận. Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Đặng Nghiêm Hoành cũng không được tham dự các hoạt động của đoàn, trong khi đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, Trương Đức Duy lại có mặt trong mọi hoạt động chính thức của đoàn tại Trung Quốc.
Ngày 28/7/91, đoàn đã đến Bắc Kinh và trong mấy ngày sau đó đã gặp Kiều
Thạch, Lý Bằng, Giang Trạch Dân thông báo khá chi tiết về Đại hội VII.
Thông báo cả những ý kiến khác nhau quá trình thảo luận, tranh luận và
việc biểu quyết những vấn đề quan trọng trong Đại hội, và cơ cấu nhân sự
của Ban Chấp hành Trung ương mới..., Giang Trạch Dân và Lý Bằng tỏ ra
quan tâm đến việc Việt Nam sẽ có Ngoại trưởng mới (thay Nguyễn Cơ Thạch)
trong kỳ họp Quốc hội tháng 8/91, Giang tỏ ý hài lòng: “Từ đáy lòng mình, tôi hết sức hoan nghênh kết quả Đại hội VII của các đồng chí Việt Nam”.
Đặc biệt mặc dù chuyến đi có mục đích gặp lãnh đạo Trung Quốc thông báo
về Đại hội VII và bàn quan hệ hai nước, nhưng Lê Đức Anh và Hồng Hà đã chủ động xin gặp Từ Đôn Tín tới 2 lần, chiều 297 và tối 317 để tạ lỗi (?).
Mở đầu cuộc gặp chiều 29/7, Lê Đức Anh đã nói:
“Năm ngoái khi đồng chí Từ Đôn Tín sang Việt Nam đã xảy ra một số trục trặc không hay lắm do phía chúng tôi gây ra (!) Đồng chí Nguyễn Văn Linh và chúng tôi khi biết việc này, chúng tôi không vui lắm. Hôm nay gặp đồng chí, tôi nói tình cảm của đồng chí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và của tôi... Tình hình trục trặc trong quan hệ là một việc đau lòng, nhất là giữa những người cộng sản. Khúc nhạc cũ đã qua rồi, mong các đồng chí yên tâm”.
Còn Từ thì cũng mượn dịp này để than phiền về đại sứ Đặng Nghiêm Hoành:
“Một năm nay đồng chí ấy không gặp tôi, trừ khi gặp ở các cuộc chiêu đãi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp đồng chí Hoành kể từ tháng 6 năm ngoái” (sự thực là phía Trung Quốc đã có thành kiến với anh Hoành từ trong cuộc đàm phán tháng 6/90 ở Hà Nội).
Từ không quên nhắc đến điều kiện không thể thiếu có thể bình thường hoá quan hệ với Việt Nam: “Tôi rất hoan nghênh đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà là từ nay không nói diệt chủng nữa. Khi về Hà Nội nếu gặp Campuchia đề nghị các đồng chí cũng nói ý này... Nếu các đồng chí lãnh đạo Việt Nam sang Trung Quốc mà cái đuôi Campuchia vẫn còn thì chúng tôi khó nói với nhân dân. Mong vấn đề Campuchia được giải quyết thì khi bình thường hoá quan hệ chúng tôi có thể ăn nói với nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới”.
Mở đầu cuộc gặp chiều 29/7, Lê Đức Anh đã nói:
“Năm ngoái khi đồng chí Từ Đôn Tín sang Việt Nam đã xảy ra một số trục trặc không hay lắm do phía chúng tôi gây ra (!) Đồng chí Nguyễn Văn Linh và chúng tôi khi biết việc này, chúng tôi không vui lắm. Hôm nay gặp đồng chí, tôi nói tình cảm của đồng chí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và của tôi... Tình hình trục trặc trong quan hệ là một việc đau lòng, nhất là giữa những người cộng sản. Khúc nhạc cũ đã qua rồi, mong các đồng chí yên tâm”.
Còn Từ thì cũng mượn dịp này để than phiền về đại sứ Đặng Nghiêm Hoành:
“Một năm nay đồng chí ấy không gặp tôi, trừ khi gặp ở các cuộc chiêu đãi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp đồng chí Hoành kể từ tháng 6 năm ngoái” (sự thực là phía Trung Quốc đã có thành kiến với anh Hoành từ trong cuộc đàm phán tháng 6/90 ở Hà Nội).
Từ không quên nhắc đến điều kiện không thể thiếu có thể bình thường hoá quan hệ với Việt Nam: “Tôi rất hoan nghênh đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà là từ nay không nói diệt chủng nữa. Khi về Hà Nội nếu gặp Campuchia đề nghị các đồng chí cũng nói ý này... Nếu các đồng chí lãnh đạo Việt Nam sang Trung Quốc mà cái đuôi Campuchia vẫn còn thì chúng tôi khó nói với nhân dân. Mong vấn đề Campuchia được giải quyết thì khi bình thường hoá quan hệ chúng tôi có thể ăn nói với nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới”.
Để dọn đường cho cuộc gặp cấp Thứ trưởng ở Bắc Kinh tháng 8/91, tối 31/7 Hồng Hà đảm bảo với Từ Đôn Tín: “Đồng
chí Lê Đức Anh và tôi sẽ làm việc trực tiếp với Thứ trưởng Nguyễn Dy
Niên (người được chỉ định đi đàm phán với Trung Quốc chỉ vì chưa có
“tiền sử” với Trung Quốc) trước khi đồng chí ấy đi Trung Quốc. Chúng tôi
phải báo cáo với Bộ Chính trị để có ý kiến chỉ đạo không những về nội
dung mà cả về tinh thần và thái độ làm việc. Tinh thần của chúng tôi là
phấn đấu làm cho cuộc gặp thành công”.
Sau khi đã cam kết từ nay không nói đến vấn đề diệt chủng nữa, Hồng Hà hỏi Từ: “Tôi muốn hỏi đồng chí ngoài vấn đề diệt chủng, còn hai vấn đề gai góc là vấn đề quân đội các bên Campuchia và vai trò LHQ thì phương hướng giải quyết nên thế nào, để chúng tôi có thể góp phần làm cho cuộc gặp thứ trưởng Việt – Trung ở Bắc Kinh sắp tới đạt kết quả tốt”.
Xin ý kiến đối phương và hướng giải quyết vấn đề để đàm phán trước khi đàm phán, thật là chuyện có một không hai trong lịch sử đối ngoại !
Sau khi đã cam kết từ nay không nói đến vấn đề diệt chủng nữa, Hồng Hà hỏi Từ: “Tôi muốn hỏi đồng chí ngoài vấn đề diệt chủng, còn hai vấn đề gai góc là vấn đề quân đội các bên Campuchia và vai trò LHQ thì phương hướng giải quyết nên thế nào, để chúng tôi có thể góp phần làm cho cuộc gặp thứ trưởng Việt – Trung ở Bắc Kinh sắp tới đạt kết quả tốt”.
Xin ý kiến đối phương và hướng giải quyết vấn đề để đàm phán trước khi đàm phán, thật là chuyện có một không hai trong lịch sử đối ngoại !
Sau khi ở Trung Quốc về, ngày 4/8/91, Lê Đức Anh và Hồng Hà gặp tôi và
Nguyễn Dy Niên tại Văn phòng Trung ương Đảng để chuẩn bị cho Niên đi đàm
phán với Trung Quốc.
Sau khi anh Niên đọc bản đề án của Bộ Ngoại giao, tôi nói:
“Anh Hoành (đại sứ ta ở Trung Quốc) vừa điện về phía Trung Quốc thông báo có 3 buổi làm việc nhưng họ nói có thể làm một buổi là xong. Chắc chắn Từ Đôn Tín sẽ đưa văn bản buộc chúng ta phải thoả thuận. Nếu ta nhận, họ sẽ xì ra cho các nước P5, ASEAN và bạn Campuchia. Ta sẽ ở vào thế phản bội đồng minh, phản bội bạn bè. Nếu ta đòi sửa văn bản của Trung Quốc thì sẽ không ra được văn bản, đàm phán sẽ thất bại. Chúng tôi đã xem lại biên bản thấy Trung Quốc gắn rất chặt vấn đề Campuchia với việc bình thường hoá quan hệ, vẫn coi Campuchia là điều kiện. Trung Quốc rất khôn, khi gặp cấp cao chỉ tập trung vào vấn đề quan hệ hai nước, còn cái xương để lại. Gặm cái xương này, chúng ta phải giải quyết vấn đề có tính nguyên tắc. Ta quyết tâm bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc nhưng không được phá quan hệ với Campuchia và không được để thế giới thấy anh Việt Nam là người tráo trở”.
Biết tôi quá gai góc, không chịu chấp nhận ý đồ thoả hiệp vô nguyên tắc với Trung Quốc, Lê Đức Anh và Hồng Hà chỉ nói chung chung về chuyến đi Bắc Kinh vừa qua.
Hồng Hà nói: “Tinh thần tôi nắm được là ý Trương Đức Duy và Từ Đôn Tín đều lo cuộc gặp Thứ trưởng thất bại. Từ có hỏi: Không biết đồng chí Thứ trưởng nào gặp tôi có nắm được tinh thần này không ?”
Tôi liền bảo: “Như vậy càng rõ là họ có yêu cầu cao nên họ sợ ta không thể chấp nhận được”.
Hồng Hà nói: “Tôi hiểu họ muốn bình thường hoá quan hệ là chính nên họ lo”.
Tôi đáp: “Về mặt này thì phải nói là Việt Nam lo hơn vì Việt Nam mót bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc hơn.”
Vào cuối buổi họp, Hồng Hà nói: “Chuyến đi của anh Niên là thuận lợi, sau chuyến đi của anh Lê Đức Anh. Anh Niên cũng là nhân vật mới, không có “tiền sử”. Khi nhắc đến tháng 6/90 họ rất cay cú”.
Lê Đức Anh thêm vào: “Sau tháng 6/90 lại có phát biểu với báo chí của hai bên nên càng tích tụ thêm, gắng thêm”. (ý nói đến lần sau đàm phán tháng 6/90, giữa tôi và Từ Đôn Tín có sự phê phán nhau trên báo chí). Và đến chiều, khi họp Thường trực Bộ Chính trị bàn về việc đàm phán với Trung Quốc họ chỉ triệu tập anh Niên, không triệu tập tôi.
Sau khi anh Niên đọc bản đề án của Bộ Ngoại giao, tôi nói:
“Anh Hoành (đại sứ ta ở Trung Quốc) vừa điện về phía Trung Quốc thông báo có 3 buổi làm việc nhưng họ nói có thể làm một buổi là xong. Chắc chắn Từ Đôn Tín sẽ đưa văn bản buộc chúng ta phải thoả thuận. Nếu ta nhận, họ sẽ xì ra cho các nước P5, ASEAN và bạn Campuchia. Ta sẽ ở vào thế phản bội đồng minh, phản bội bạn bè. Nếu ta đòi sửa văn bản của Trung Quốc thì sẽ không ra được văn bản, đàm phán sẽ thất bại. Chúng tôi đã xem lại biên bản thấy Trung Quốc gắn rất chặt vấn đề Campuchia với việc bình thường hoá quan hệ, vẫn coi Campuchia là điều kiện. Trung Quốc rất khôn, khi gặp cấp cao chỉ tập trung vào vấn đề quan hệ hai nước, còn cái xương để lại. Gặm cái xương này, chúng ta phải giải quyết vấn đề có tính nguyên tắc. Ta quyết tâm bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc nhưng không được phá quan hệ với Campuchia và không được để thế giới thấy anh Việt Nam là người tráo trở”.
Biết tôi quá gai góc, không chịu chấp nhận ý đồ thoả hiệp vô nguyên tắc với Trung Quốc, Lê Đức Anh và Hồng Hà chỉ nói chung chung về chuyến đi Bắc Kinh vừa qua.
Hồng Hà nói: “Tinh thần tôi nắm được là ý Trương Đức Duy và Từ Đôn Tín đều lo cuộc gặp Thứ trưởng thất bại. Từ có hỏi: Không biết đồng chí Thứ trưởng nào gặp tôi có nắm được tinh thần này không ?”
Tôi liền bảo: “Như vậy càng rõ là họ có yêu cầu cao nên họ sợ ta không thể chấp nhận được”.
Hồng Hà nói: “Tôi hiểu họ muốn bình thường hoá quan hệ là chính nên họ lo”.
Tôi đáp: “Về mặt này thì phải nói là Việt Nam lo hơn vì Việt Nam mót bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc hơn.”
Vào cuối buổi họp, Hồng Hà nói: “Chuyến đi của anh Niên là thuận lợi, sau chuyến đi của anh Lê Đức Anh. Anh Niên cũng là nhân vật mới, không có “tiền sử”. Khi nhắc đến tháng 6/90 họ rất cay cú”.
Lê Đức Anh thêm vào: “Sau tháng 6/90 lại có phát biểu với báo chí của hai bên nên càng tích tụ thêm, gắng thêm”. (ý nói đến lần sau đàm phán tháng 6/90, giữa tôi và Từ Đôn Tín có sự phê phán nhau trên báo chí). Và đến chiều, khi họp Thường trực Bộ Chính trị bàn về việc đàm phán với Trung Quốc họ chỉ triệu tập anh Niên, không triệu tập tôi.
Được biết trong cuộc họp này Tổng bí thư Đỗ Mười đã khẳng định là không
nên vì vấn đề Campuchia mà cản trở việc bình thường hoá quan hệ của ta
với Trung Quốc.
Về vấn đề Campuchia, họ chỉ thị cho anh Niên thoả thuận với phía Trung Quốc:
Về vấn đề Campuchia, họ chỉ thị cho anh Niên thoả thuận với phía Trung Quốc:
1. Không nói về vấn đề diệt chủng. Lê Đức
Anh nói phải dứt khoát thôi vấn đề diệt chủng. Và Tổng bí thư Đỗ Mười
nhấn thêm: “Nếu nói vấn đề diệt chủng tức là đồng minh với Mỹ chống
Trung Quốc” (!)
2. Nâng cao vai trò SNC Campuchia, hạ thấp vai trò LHQ.
3. Giảm quan các bên Campuchia 50%
Để đảm bảo cuộc đàm phán không đi chệch khỏi quỹ đạo đã dàn xếp trước với Trung Quốc, Hồng Hà còn để Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại, ở lại Bắc Kinh để tham gia đoàn đàm phán, thực chất để giám sát Nguyễn Dy Niên có theo đúng những điều họ đã thoả thuận trước với Trung Quốc không.
Ngày 10/8/91, sau khi cái gọi là cuộc đàm phán này đạt kết quả đúng ý
Trung Quốc (hoan nghênh Sihanouk giữ chức chủ tịch SNC, ủng hộ văn kiện
khung của LHQ về giải pháp Campuchia), vào đúng ngày Quốc hội Việt Nam
thông qua việc bổ nhiệm Nguyễn Mạnh Cầm thay Nguyễn Cơ Thạch làm Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao, Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham nhận tiếp
Nguyễn Dy Niên và ngỏ lời mời tân Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm thăm
Trung Quốc ngày 16/9/91 để chuẩn bị cho cuộc gặp cấp cao Trung – Việt ở
Bắc Kinh.
Ta đã dự kiến sau cuộc đàm phán ở Bắc Kinh sẽ sang PhnomPenh thông báo
cho bạn Campuchia nhưng tối 18/8/91 Hồng Hà lại gọi điện chỉ thị: “Theo
ý kiến đồng chí Lê Đức Anh, anh Niên không phải đi Campuchia thông báo
với bạn nữa và cũng không thông báo cho bất cứ ai về cuộc đàm phán ở Bắc
Kinh vừa qua” (mặc dù phía Trung Quốc đã thông báo cho các nước ASEAN và các nước phương Tây rồi). Và còn nói thêm: “Từ nay trở đi, trên giấy trắng mực đen đừng ghi ý đồ của Trung Quốc nữa (?) vì vấn đề này Bộ Chính trị đã nắm rồi.”
Nói chung, từ sau Đại hội VII, tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt
Nam – Trung Quốc như cỗ máy đã được tra dầu đầy đủ, diễn biến trơn tru
theo trình tự đã định.
Ngày 5-10/11/91, sau khi Hiệp định về Campuchia được ký kết ở Pari, Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để hoàn thành việc bình thường hoá mối quan hệ bị trục trặc lớn từ tháng 2/79.
Nhưng trong khi lãnh đạo ta ôm kỳ vọng cùng Trung Quốc “bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đề quốc” thì họ đã xác định quan hệ với ta là “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đầu” (thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau).
Trung Quốc nói thế song luôn luôn lấy thế nước lớn để lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải ta, và hiểm độc nhất là không ngừng tác động vào nội bộ ta.”
Ngày 5-10/11/91, sau khi Hiệp định về Campuchia được ký kết ở Pari, Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để hoàn thành việc bình thường hoá mối quan hệ bị trục trặc lớn từ tháng 2/79.
Nhưng trong khi lãnh đạo ta ôm kỳ vọng cùng Trung Quốc “bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đề quốc” thì họ đã xác định quan hệ với ta là “thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đầu” (thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau).
Trung Quốc nói thế song luôn luôn lấy thế nước lớn để lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải ta, và hiểm độc nhất là không ngừng tác động vào nội bộ ta.”
Trần Quang Cơ
Hồi ký “Hổi ức và Suy nghĩ” (Trích)
==========
Bài 4:
TẬP ĐOÀN BÁ QUYỀN, BÀNH TRƯỚNG TRUNG QUỐC NGÀY CÀNG CAN THIỆP SÂU, PHÂN HOÁ
NỘI BỘ VIỆT NAM
NỘI BỘ VIỆT NAM
Hồi ký "Hồi Ức và Suy Nghĩ" của Trần Quang Cơ
nhà báo Trần Quang Thành giới thiệu
Lời giới thiệu:
Từ sau hội nghi Việt Trung ở Thành Đô (Trung Quốc), tập đoàn bá quyền,
bành trướng Trung Quốc càng lộ liễu, trắng trợn can thiệp vào công việc
nội bộ của Việt Nam, dùng sức ép về chính trị, kinh tế và các thủ đoạn
nham hiểm khác chía rẽ nhóm cầm đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, lấn chiếm
lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam.
Hơn 20 năm trôi qua từ hội nghị Thành Đô
(9/1990) đến hội nghị Bắc Kinh (10/2011), từ cái ngày ông Tổng bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam - Nguyễn Văn Linh lén lút đi gặp quan thầy Trung
Quốc tại Thành Đô để mua lấy sự sống còn cho đảng đến bây giờ đã hơn 20
năm. Những gì xảy ra cho đất nước Việt Nam từ bàn tay khuynh loát, thống
trị của Trung Quốc ra sao trong suốt thời gian đó nhiều người đã quá
rõ.
Và như nhà nghiên cứu Nguyễn Trung trong bài viết mang tựa đề "Phải chặn đứng nguy cơ tái diễn kịch bản Thành Đô 1990" đã viết :
"Nhìn lại hơn 20 năm qua, điểm lại toàn
bộ những việc trong quan hệ hai nước đã làm được, từ đàm phán biên giới
trên bộ và dưới biển, phát triển quan hệ kinh tế, việc Trung Quốc trúng
thầu hàng trăm công trình kinh tế quốc gia quan trọng của Việt Nam,
thuê đất, thuê rừng, bô-ít Tây Nguyên, ti-tan ven biển miền Trung, những
hoạt động tăng cường quan hệ thực ra là nhằm tăng cường chi phối nhân
sự nước ta, những hoạt động tăng cường giao lưu.., tất cả đều chịu sự
chi phối sâu sắc của quyền lực mềm Trung Quốc.
Những sai lầm, yếu kém chủ quan của ta,
do chính ta tự gây nên, cần phải được nhìn nhận khách quan và phê phán
nghiêm khắc, không thể đổ thừa cho bất kỳ ai bên ngoài.
Dù khẳng định dứt khoát như thế, vẫn
phải đánh giá nghiêm khắc: Tổng hợp tình hình hơn 20 năm qua, thực tế
đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển, thì Việt Nam càng
lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị, bị uy hiếp
nhiều hơn về đối ngoại và quốc phòng. Thực tế này, cùng với ảnh hưởng
chính trị nói chung của Trung Quốc vào đối nội của Việt Nam một mặt đang
kìm hãm nghiêm trọng toàn bộ sự phát triển của Việt Nam nói chung, mặt
khác gây ly tán đến mức nguy hiểm giữa nhân dân và lãnh đạo đất nước,
khiến cho trấn áp và mất dân chủ trong đối nội phải gia tăng, đồng thời
thực tế này cũng khuyến khích tham nhũng tiêu cực phát triển. Những vụ
trấn áp biểu tình vừa qua chống yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông
nói lên nhiều điều và càng đổ dầu thêm vào lửa bức xúc trong nhân dân.
Hiện nay, đất nước có rất nhiều yếu kém
bên trong, lệ thuộc và hèn yếu về đối ngoại, nguyên nhân của thực trạng
này – ngoài các lẫm lỗi chủ quan của ta – có nguyên nhân chi phối rất
nghiêm trọng của ảnh hưởng Trung Quốc.
Ngày nay, lợi ích quốc gia đòi hỏi phải
lọai bỏ xu thế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển
thì Việt Nam càng lệ thuộc vào Trung Quốc và tương lai phát triển của
Việt Nam càng bị chặn đứng. Ngày nay quốc gia đang đứng trước nguy cơ
Trung Quốc tìm cách tiếp tục lấn chiếm biển đảo của đất nước trên Biển
Đông. Sau 37 năm độc lập thống nhất, đất nước đang lâm nguy.
Những yếu kém của ta trước đây đã dẫn
đến Thành Đô 1990. Không loại trừ nguy cơ những yếu kém hiện nay của
nước ta có thể tái lập một Thành Đô 1990 đời mới, với hệ quả là vứt bỏ
cả thế giới đang đứng về phía chính nghĩa của nước ta, để quay lại hòa
hiếu với Trung Quốc và để đẩy tiếp cả đất nước xuống bùn đen!
Cả nước phải đồng lòng nhất trí loại bỏ
nguy cơ mới này. Muốn có được quan hệ hữu nghị thực sự, hợp tác bình
đẳng cùng có lợi giữa Việt Nam – Trung Quốc, càng nhất thiết phải loại
bỏ nguy cơ Thành Đô 1990 đời mới!
Hồi ký “Hồi ức và Suy nghĩ” của Trần Quang Cơ đã phơi bầy một phần sự thật
Chương 16 dưới tiêu đề “Món nợ Thanh Đô”, nhà ngoại giao kỳ cựu Trần Quang Cơ viết :
“Từ tháng 9/90, Trung Quốc luôn coi ta mắc nợ họ về thoả thuận Thành Đô,
đòi ta thực hiện thoả thuận đó, cụ thể là tác động với Phnom Penh nhận
SNC có 13 thành viên và do Sihanouk làm Chủ tịch. Với cách làm đó, họ
khơi sâu thêm bất đồng trong nội bộ ta…
Trung Quốc thấy rằng việc thực hiện thoả thuận Thành Đô gặp trở ngại
chính từ Bộ Ngoại giao nên chủ trương chia rẽ nội bộ ta càng trắng trợn
hơn. Đại sứ mới của Malaysia ngày 3.10.90 đến chào xã giao, nói với tôi
là ở Bắc Kinh người ta đưa tin là có sự khác nhau giữa Bộ Ngoại giao và
lãnh đạo Đảng về chủ trương đối ngoại cho nên trong chuyến đi Thành Đô
gặp cấp cao Trung Quốc không có ông Nguyễn Cơ Thạch.
Sau Thành Đô, trong khi ta nới rộng hoạt động của sứ quán Trung Quốc ở
Việt Nam thì phía Trung Quốc lại tỏ ra lạnh nhạt với Bộ Ngoại giao công
kích lãnh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam; hạn chế hoạt động của Đại sứ ta ở
Bắc Kinh, không sắp xếp Đại sứ ta tham dự vào cuộc Lý Bằng tiếp anh Võ
Nguyên Giáp, anh Vũ Oanh; cử cán bộ cấp thấp tiếp và làm việc với Đại sứ
ta. Trung Quốc một mặt khẳng định là vấn đề Campuchia chưa giải quyết
thì quan hệ Trung - Việt “chỉ có bước đi nhỏ”, mặt khác thăm dò và tích
cực tác động đến vấn đề nhân sự và phương án chuẩn bị Đại hội VII của
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ họp vào giữa năm 1991.
Từ tháng 3/91, tại kỳ họp Quốc hội Trung Quốc khoá 7, Lý Bằng tuyên bố
“quan hệ Trung – Việt đã tan băng” và có một số điều chỉnh mềm dẻo hơn
trong vấn đề Campuchia. Về vấn đề SNC của Campuchia. Trung Quốc không cố
bám giữ con số 13, tạm gác vấn đề chủ tịch, phó chủ tịch, đưa ra công
thức “Sihaouk chủ trì các cuộc họp SNC”. Từ chỗ chỉ có quan hệ với 3
phái, sau cuộc gặp SNC ở Pattaya (Thái Lan), Trung Quốc chuyển sang quan
hệ trực tiếp với Nhà nước Campuchia, mời Hunxen thăm Bắc Kinh trong 3
ngày (22-24/7/91).
Chiều Chủ nhật 18/11/90 họp Bộ Chính trị về vấn đề Campuchia. Từ sau khi
P5 thoả thuận về văn kiện khung (28/890) cuộc đấu tranh về vấn đề
Campuchia đi vào giai đoạn cuối, gay gắt và quyết liệt. Thay mặt Bộ
Ngoại giao, tôi trình bày đề án về nguyên tắc đấu tranh về văn kiện
khung của P5 và về vấn đề SNC để Bộ Chính trị cho ý kiến.
Khi tôi trình bày xong, anh Thạch đề nghị Bộ Chính trị khẳng định 2 điểm:
1. Vấn đề SNC là vấn đề nội bộ của Campuchia, ta không ép bạn được, phải tôn trọng chủ quyền của bạn;
2. Về văn kiện khung, ta phải bác những điểm vi phạm Hiến chương LHQ.
Nếu không sau này có ảnh hưởng đến vấn đề xử lý Trường Sa... Ta thấy rõ
Trung Quốc và Mỹ đều nhất trí xoá Nhà nước Campuchia bằng cách khác
nhau.
Cuối cuộc họp, Tổng bí thư Linh kết luận: “Về SNC ta không thể góp ý
với bạn được... Nếu nói Trung Quốc và Mỹ như nhau thì tôi không đồng ý.
Sau hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị sẽ đánh giá lại một số vấn đề liên
quan đến ngoại giao như nhận định về Trung Quốc thế nào, tuyên bố hoặc
nói về Trung Quốc như thế nào ?”
Nguyễn Cơ Thạch nói luôn : “Đồng ý đánh giá lại cả cuộc hội đàm ở Thành Đô”.
Dự thảo Hiệp định toàn bộ về Campuchia ngày 26/11/90 do P5 thảo ra đã
được các thành viên SNC Campuchia chấp nhận về cơ bản tại cuộc họp ở
Paris ngày 23/12/90.
Chủ trương của ta là giải pháp chính trị về Campuchia, nhất là những vấn
đề nội bộ Campuchia, phải do bạn tự quyết định và chịu trách nhiệm với
dân tộc Campuchia. Ta hết sức giúp đỡ họ, gợi ý để họ tránh được những
thất bại không đáng có, nhưng ta không thể làm thay. Như vậy ta vừa hết
lòng giúp bạn vừa không để Việt Nam một lần nữa bị sa lầy vào cuộc đấu
tranh nội bộ của Campuchia. Không để vấn đề giải pháp chính trị về
Campuchia lại một lần nữa trở thành vấn đề lịch sử trong quan hệ Việt
Nam – Campuchia.
Theo yêu cầu của bạn, ngày 14/1/91, tôi cùng các anh Huỳnh Anh Dũng, Lê
Công Phụng, Vũ Tiến Phúc, chuyên viên về giải pháp Campuchia, sang Phnom
Penh làm việc với bạn với mục đích:
a. Tìm hiểu suy nghĩ và ý định của bạn về giải pháp Campuchia sau khi
bạn đã chấp nhận văn kiện khung của P5 tại cuộc họp Jakarta 10/9/90 và
chấp nhận về cơ bản dự thảo Hiệp định 26/11 của P5 tại cuộc họp Paris
23/12/90;
b. Thuyết phục bạn kiên quyết tách riêng các vấn đề nội bộ thuộc chủ quyền Campuchia để chỉ thaỏ luận và giải quyết trong SNC;
c. Thoả thuận kế hoạch chuẩn bị cho việc họp lại Hội nghị quốc tế Paris.
Khi tiếp tôi, anh Hunxen nói: “Trong nội bộ Campuchia, xu hướng mạnh
nhất là muốn có một giải pháp chính trị giữ được thành quả cách mạng,
không để cho Polpot quay trở lại... Tình hình hiện nay rất tế nhị. Tình
hình phức tạp sẽ xảy ra nếu ta chấp nhận một giải pháp vô nguyên tắc.
Chỉ cần chấp nhau một giải pháp như vậy thì nội bộ Campuchia đã hỗn loạn
rồi chứ chưa nói là ký kết. Ta giữ lập trường cứng như vừa qua là tốt.
Đề nghị Việt Nam không để đẩy quá nhanh tiến trình giải pháp.
Như vậy, qua các cuộc gặp Bộ trưởng Hor Nam Hong, Thứ trưởng Dith Munty
và Thứ trưởng Sok An, nhất là qua phát biểu của Chủ tịch Hunxen chiều
16/11, có thể thấy được chủ trương của bạn cố kéo dài trạng thái đánh
đàm hiện tại vì nhiều yếu tố chủ quan khách quan khác nhau, song chủ yếu
vì trong nội bộ lãnh đạo bạn xu hướng chưa muốn đi vào giải pháp còn
rất mạnh.
Hunxen cho biết theo quyết định của Bộ Chinh trị Campuchia, trong cuộc
họp Trung ương ngày 17/1/91, ông ta sẽ thông báo cho Trung ương là “năm
1991 sẽ chưa có giải pháp”. Tuy nhiên, tôi lại có cảm thấy trong suy
nghĩ cũng như trong hành động lãnh đạo Campuchia đang có nhiều mâu thuẫn
lúng túng, chưa xác định được cho mình một đường lối rõ ràng mạch lạc,
mà chỉ lo đối phó từng bước với những vấn đề trong nội bộ cũng như với
đối phương.
Trong lần gặp Heng Somrin ở Hà Nội ngày 24/2/91, anh Nguyễn Văn Linh vẫn
cố ép bạn “cần thực hiện tốt chính sách hoà hợp dân tộc, không nên nhấn
mạnh vấn đề diệt chủng, nên SNC gồm 13 thành viên và Sihanouk làm Chủ
tịch”.
Heng Somrin về nói lại với Bộ Chính trị Đảng Campuchia thì tất cả đều
băn khoăn và ngại rằng Heng Somrin không thạo tiếng Việt nên nghe có thể
sai sót. Thực ra, như Hunxen nói với anh Ngô Điền, khi nghe Heng Somrin
nói lại những ý kiến của anh Linh, Bộ Chính trị Campuchia rất lo vì
thấy Việt Nam khác Campuchia nhiều quá.
Ngày 13/3/91 Hunxen nói với anh Thạch: “Có thể có sách lược phân hoá
Khmer đỏ, nhưng dứt khoát không thể bỏ vấn đề diệt chủng. Nếu bỏ sẽ có 3
mối nguy hiểm: sẽ mất con bài mặc cả trong đàm phán ngay từ đầu; mất
lợi thế trong tổng tuyển cử; kẻ thù sẽ có lợi trong việc vu cáo Việt Nam
là mọi chuyện xảy ra 12 năm qua đều do Việt Nam gây ra cả. Số lượng
thành viên SNC có thể là 12 hoặc 14, không thể chấp nhận con số 13, sẵn
sàng cho Sihanouk làm chủ tịch, Hunxen làm phó, không đòi chức chủ tịch
luân phiên hay đồng chủ tịch nữa”.
Trong cách làm này của ta cho thấy ta chỉ quan tâm đến điều mà ta cho là
có lợi ích đối với ta mà thiếu cân nhắc xem điều đó có phù hợp với lợi
ích của bạn không. Cách làm đó tất yếu ảnh hưởng xấu đến quan hệ gắn bó
lâu nay giữa ta với Phnom Penh.
Đầu năm 1991, Bộ Chính trị đã có cuộc họp tại T78 thành phố Hồ Chí Minh
(24-25/1/91) để bàn về vấn đề Campuchia. Tôi trình bày chủ trương tách
mặt quốc tế với mặt nội bộ của giải pháp Campuchia, đồng thời báo cáo ý
kiến của Hunxen cho biết là Bộ Chính trị Campuchia quyết định không đi
vào giải pháp trong năm 1991.
Bộ Chính trị quyết định cần thăm dò khả năng họp Bộ Chính trị 3 nước để
hướng Campuchia đi vào giải pháp, họp có tính chất trao đổi, gợi ý chứ
không quyết định, ta không thể ép bạn, đồng thời phải tỏ được thiện chí,
tránh mọi việc làm ta bị cô lập.
Nhân dịp này, tôi đã ngỏ ý với anh Thạch là tôi muốn rút khỏi Trung ương
khoá tới. Anh Thạch tỏ ý không tán thành. Đến tháng 2/91, khi có cuộc
bầu đại biểu ở các tỉnh để đi dự Đại hội VII, tôi đã gửi thư cho anh
Nguyễn Đức Tâm, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, xin rút khỏi danh sách dự
Đại hội VII.
Lúc này tinh thần tôi đã có phần mệt mỏi vì những sự việc trong thời
gian qua. Nhưng yêu cầu của tôi không được đáp ứng. Tôi nhận được giấy
đi dự Đại hội tỉnh Đảng bộ Sơn la và được bầu vào Đoàn đại biểu tỉnh Sơn
la đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.Tháng 6/91, tôi có giấy đi
dự Đại hội Đảng với tư cách đại biểu tỉnh Sơn La rồi tiếp tục tham gia
Trung ương khoá VII
.
Tình hình bất đồng ý kiến trong Bộ Chính tri càng đến gần Đại hội càng bộc lộ gay gắt.
Ngày 13/4/91, trong cuộc họp Bộ Chinh trị bàn về tình hình thế giới và
đường lối đối ngoại để chuẩn bị báo cáo chính trị tại Đại hội, sau khi
anh Thạch bản báo cáo về “Tình hình thế giới và chiến lược đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta”, Lê Đức Anh giới thiệu đại tá Lân, cán bộ Cục II
Bộ Quốc phòng, trình bày về tình hình thế giới và mưu đồ đế quốc”.
Nghe xong, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh phát biểu: “Chủ quan tôi nghĩ
giữa bản trình bày sáng nay (của Bộ Ngoại giao) và bản trình bày tình
hình quân sự chiều nay của Bộ Quốc phòng có nhiều chỗ khác nhau. Muốn
thảo luận chủ trương thì phải thảo luận tình hình trước, nhưng cách đánh
gia tình hình còn khác nhau”
Cố vấn Phạm Văn Đồng: “Nói khôi hài lúc này thật không phải lẽ. Chúng
ta cần cố gắng làm việc đúng lương tâm, nghiêm chỉnh, đúng trách nhiệm
của mình. Bộ Chính trị đã giao cho 3 đồng chí phụ trách 3 ngành làm
nhưng lại chưa làm”.
Lê Đức Anh: “Bộ Chính trị nên nghe tình hình nhiều mặt, ngay trong
nước chúng ta cũng đánh giá khác nhau. Căn cứ vào đánh gía chung, mỗi
ngành có đề án riêng, không làm chung được”.
Nguyễn Cơ Thạch đồng ý 3 ngành thảo luận để đi tới nhất trí về tình hình, còn công tác thì mỗi ngành làm.
Trên tinh thần đó, ngày 2/591, đã có cuộc họp giữa Ngoại giao, An ninh
và Quốc phòng để thống nhất nhận định tình hình thế giới.
Dự họp về phía Bộ Quốc phòng có: Lê Đức Anh, Trần Văn Quang, Đại tá Lân
(thường gọi là Lân thọt), Bộ Nội vụ có: Mai Chí Thọ; Bộ Ngoại giao có
Nguyễn Cơ Thạch và 4 thứ trưởng. Còn 3 phó ban Đối ngoại: Nguyễn Thị
Bình, Trịnh Ngọc Thái, Nguyễn Quang Tạo.
Thu hoạch của cuộc họp khá nghèo nàn, không đem lại được sự nhất trí
trong nhận định tình hình, chỉ nhất trí được mấy điểm lý luận chung
chung.
Chỉ còn một tháng đến ngày họp Đại hội VII, Chính trị B họp liền gần 3
ngày (15,16 và 17/5/91) để thảo luận bản dự thảo “Báo cáo về tình hình
thế giới và việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đại hội VI và phương
hướng tới”.
Bộ Chính trị có mặt đông đủ. Theo dõi cuộc họp ở ghế dự thính. Số dự
thính lúc đầu có 10 người, từ chiều 16/5 khi đi vào kiểm điểm việc thực
hiện các Nghị quyết về đối ngoại của Đại hội VI thì dự thính thu hẹp lại
chỉ còn có Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Đinh Nho Liêm và tôi.
Từ đầu đến cuối, tôi đã nhận rõ sự đấu tranh giữa hai quan điểm về mặt
quốc tế, nhất là khi đi vào phần kiểm điểm thực hiện đường lối đối
ngoại, nói đến vấn đề Campuchia và quan hệ với Trung Quốc.
Bản dự thảo báo cáo của Bộ Ngoại giao có nêu “đã có một số việc làm
không đúng với các Nghị quyết của Bộ Chính trị”, “thái độ đối với Trung
Quốc có sự thay đổi qua 2 giai đoạn (trước và sau năm 1989) trái với
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị (20/5/88)”, “giữa ta và bạn Campuchia đã
bộc lộ sự khác nhau khá rõ rệt”, về đối ngoại, ta “lúng túng, thiếu bình
tĩnh” trước cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Âu và Liên Xô...; đã bỏ
lỡ cơ hội cải thiện với ASEAN (khi Thái Lan mời Thủ tướng Đỗ Mười sang
thăm, nhưng anh Mười nói phải đi Liên Xô, đi Ấn Độ rồi mới đi Thái), đã
làm nảy sinh tranh cãi khá căng, đặc biệt khi bàn đến đúng sai trong
chuyện gặp cấp cao Trung Quốc ở Thành Đô tháng 9.90 và vấn đề chống diệt
chủng và “giải pháp Đỏ”.
Anh Võ Chí Công: “Về Trung Quốc rất phức tạp... Bộ Chính trị đã đánh
giá Trung Quốc có hai mặt xã hội chủ nghĩa và bá quyền. Về xã hội chủ
nghĩa cũng cần thấy là trong “nháy nháy”... Khó khăn là chưa bình thường
hoá quan hệ... Họ đưa ra 5 trở ngại, có cái hàng trăm năm không giải
quyết nổi. Ví dụ như chuyện “Liên bang Đông Dương”, họ biết ta không có ý
đồ đó song cứ nêu lên cốt để chia rẽ và giành lấy Lào và Campuchia, gạt
ta ra... Chuyện “giải pháp Đỏ” là không được, vì như vậy thì có nghĩa
là Trung Quốc sẽ đi với ta chống Mỹ trong lúc chủ trương của họ là tranh
thủ khoa học – kỹ thuật của phương Tây để hiện đại hoá, còn gì là Trung
Quốc nữa ?
Tới cuối cuộc họp, Nguyễn Đức Tâm còn nói: “Chưa làm dự thảo Nghị
quyết ngay được vì qua thảo luận thấy ý kiến Bộ Chính trị còn khác nhau
về đánh giá đúng thành tích, đúng bạn thù, đối sách. Đại hội đến nơi,
sau Đại hội không còn Bộ Chính trị này nữa, tuy một số đồng chí còn ở
lại... Mặc dù vậy Nguyễn Thanh Bình chủ trì cuộc họp vẫn kết luận làm dự
thảo Nghị quyết về đối ngoại.”
Chương 20 là chương kêt thúc hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ”.
Dưới tiêu đề “Kết thúc một chặng đường nhưng lịch sử chưa sang trang”, nhà ngoại giao kỳ cựu Trần Quang Cơ viết :
“Sau 12 năm ròng rã, đối với chúng ta, vấn đề Campuchia coi như đã kết
thúc và đã trở thành một hồ sơ của bộ phận lưu trữ trong Bộ Ngoại giao
Việt Nam. Nhưng những bài học của 12 năm ấy vẫn còn có nhiều tính chất
thời sự, nhất là bài học về chính sách và thái độ cư xử với các nước
lớn.
Tiếp sau việc vấn đề Campuchia được giải quyết là việc thực hiện bình
thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Theo thoả thuận giữa hai bên, ngày
5/11/91, Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có cuộc đi thăm
chính thức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đánh dấu sự bình thường
hoá quan hệ giữa hai nước. “Quan hệ Việt – Trung tuân thủ các nguyên tắc
tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn
nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau... Quan hệ Việt –
Trung không phải là quan hệ đồng minh, không trở lại quan hệ như những
năm 50-60...”
Tuy nhiên sau khi bình thường hoá quan hệ, lại dồn dập diễn ra những sự
kiện xấu trên nhiều mặt quan hệ giữa hai nước, tập trung gay gắt nhất là
các vấn đề liên quan đến lãnh thổ trên bộ vùng biên giới Hà Giang tháng
2, 3, 4/92; vụ nối lại đường xe lửa Liên vận ở Đồng Đăng, Lạng Sơn
tháng 12/91 rồi 4.5.92; Lục Lầm, Quảng Ninh tháng 5.92) và tranh chấp
biển đảo mà đỉnh cao là vụ Trung Quốc công khai hoá việc ký kết họp đồng
thăm dò khai thác dầu khí với Công ty Năng lượng Mỹ Crestone tại một
vùng rộng lớn trên thềm lục địa của Việt Nam (bãi Tư Chính).
Vì sao Trung Quốc tăng cường lấn ép ta vào thời điểm này ? Vì Trung Quốc
cho rằng tình hình đó đang thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực hiện
yêu cầu tăng thế và lực (xây dựng hải quân nhanh, nổ thử bom 1000
kilôton, thi hành chiến lược “biên giới mềm”) nhằm tạo cho mình một vị
thế đỡ bất lợi so với Mỹ và các nước lớn khác, trong đó có ý đồ gấp rút
biến biển Nam Trung Hoa - mà ta gọi là biển Đông - thành vùng biển độc
chiếm của Trung Quốc, từ đó khống chế toàn bộ vùng Đông Nam Á.
1. Trật tự thế giới cũ không còn, trật tự thế giới mới chưa hình thành.
Các đối thủ chính của Trung Quốc ở châu Á - Thái Bình Dương đều đang gặp
khó khăn, Liên Xô vừa tan rã. Liên bang Nga trước mắt chưa phải là
thách thức đáng kể, Mỹ đang giảm bớt sự có mặt về quân sự ở châu Á -
Thái Bình Dương, tránh can thiệp nếu lợi ích của Mỹ và đồng minh không
bị đụng đến.
2. Đông Nam Á mới bắt đầu quá trình nối lại các quan hệ giao lưu giữa
hai nhóm nước đối đầu cũ. Triển vọng liên kết hay nhất thể hoá Đông Nam
Á, bất lợi đối với ý đồ bá quyền của Trung Quốc, đang còn có những trở
ngại (nghi ngờ nhau do khác ý thức hệ, va chạm lợi ích, ý đồ của Thái
Lan đối với Lào, Campuchia) đòi hỏi thời gian khắc phục Trung Quốc muốn
tranh thủ thời gian này để cản phá xu thế hợp tác khu vực giữa Đông
Dương, chủ yếu là Việt Nam và ASEAN tạo ra một tập hợp lực lượng thân
Trung Quốc ở Đông Nam Á (quân phiệt Thái, quân phiệt Myanmar, Khmer đỏ ở
Campuchia và Lào nếu có thể) để khuất phục Việt Nam.
3. Bản thân Việt Nam còn đang lúng túng về những vấn đề chiến lược (vấn
đề đồng minh, vấn đề tập hợp lực lượng, vấn đề bạn thù) trong tình hình
mới sau khi Liên Xô tan rã, quan hệ với Mỹ chưa bình thường hoá, Trung
Quốc muốn đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên thế mạnh.
Vì vậy Trung Quốc nhẩn nha trong các bước bình thường hoá quan hệ với
Việt Nam, vừa tạo bề mặt thân mật gắn bó Trung – Việt, vừa xiết chặt bên
trong, giành lợi thế cho mình trên mọi lĩnh vực quan hệ. Cả hai mặt đều
nhằm đạt mục tiêu khẳng định Việt Nam - Đông Dương là thuộc khu vực ảnh
hưởng của Trung Quốc, muốn tách Việt Nam khỏi Đông Nam Á và thế giới
bên ngoài.
*
* *
Ngày 29/11/93, tại cuộc họp Trung ương thứ 6 khoá VII để nhận định tình
hình và bàn về ảnh hưởng tới, với dự tính sẽ xin rút khỏi Trung ương
trong kỳ họp Trung ương giữa nhiệm kỳ tới, tôi đã tranh thủ nói rõ quan
điểm của tôi trước phiên họp toàn thể Trung ương dưới dạng trình bày
những suy nghĩ của mình về “Thời cơ và những thách thức”.
Tôi cho rằng cục diện mới lúc này có mặt thuận lợi là đang nảy sinh
những xu thế phù hợp với yêu cầu mở cửa, hoà nhập vào đời sống kinh
tế–chính trị quốc tế của ta, đang tạo nên thời cơ thực hiện mục tiêu hoà
bình và phát triển của nước ta.
Đó là:
Xu thế độc lập tự chủ, tự lực tự cường của
những nước nhỏ và vừa, có ý thức về lợi ích dân tộc của mình, cưỡng lại
chính trị cường quyền áp đặt của nước lớn.
Xu thế đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, tăng cường ngoại gia đa phương do nhu cầu đẩy mạnh giao lưu kinh tế và an ninh tập thể.
Xu thế giữ hoà bình ổn định thế giới và khu vực nhằm bảo đảm môi trường quốc tế thuận lợi cho tập trung phát triển kinh tế.
Xu thế liên kết khu vực về kinh tế và an ninh khu vực.
Đồng thời, cũng có những thách thức lớn đối với an ninh và phát triển của ta, cả từ bên trong lẫn từ bên ngoài:
Thách thức bên trong là tệ nạn tham ô và nhũng nhiễu đang huỷ hoại sức
để kháng vật chất cũng cũng tinh thần của dân tộc ta, làm giảm hẳn khả
năng chống đỡ của ta đối với các thách thức bên ngoài.
Diễn biến hoà bình - một dạng biểu hiện của mâu thuẫn Đông - Tây sau chiến tranh lạnh.
Bá quyền bành trướng. Nguy hiểm không kém diễn biến hoà bình, ở sát nách
ta, thể hiện lúc mềm, cứng để gây mơ hồ mất cảnh giác (điểm này trong
hội nghị hầu như không có ý kiến nào đề cập tớ).
Tình hình Campuchia còn đầy bất chắc với Khơ me đỏ còn đó, cộng với chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người Campuchia.
Trên cơ sở nhận định về thời cơ và nguy cơ như vậy, tôi đã đưa ra kiến nghị:
Cần nhìn tổng thể tình hình khách quan và chủ quan, đối chiếu các thách
thức với khả năng các mặt của ta để chọn cách xử lý sát thực tế, vừa
sức.
Trước hết xử lý thách thức nào trong tầm tay của ta, tập trung chống
tham nhũng để bảo tồn và tăng cường sức đề kháng phòng ngừa thách thức
bên ngoài.
Ưu tiên cho liên kết khu vực (Đông Nam Á). Liên kết không phải để đối đầu chống nước nào.
Đối với các nước lớn, quan hệ hữu hảo, không đối đầu nước nào, nhưng đều giữ khoảng cách nhất định.
Song song với việc kết bạn, không lơ là với việc đấu tranh khi cần
thiết. Song luôn giữ giới hạn. không gây nguy cơ mất ổn định khu vực.
Tránh không làm gì có thể dồn hai hoặc ba đối thủ câu kết lại vơi nhau chống ta.
Những ý kiến trên đây có thể dùng làm đoạn kết cho phần hồi ức này của
tôi, vì phản ảnh khá đầy đủ quan điểm của tôi và cho đến nay (năm 2000)
xem ra nó chưa phải đã lỗi thời.”
Trần Quang Cơ
Hồi ký “Hồi ức và Suy nghĩ” (Trích)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét