Việt Nam Cộng Hòa, lối thoát của Hoàng Sa và dân tộc
Sau
40 năm nếu tính từ thời gian hải quân Trung Cộng tấn chiếm Hoàng Sa và
56 năm kể từ khi Phạm Văn Đồng gởi công hàm cho Thủ tướng Trung Cộng Chu
Ân Lai, lần đầu tiên lãnh đạo CSVN chính thức phủ nhận công hàm. Bao
nhiêu lần lập đi lập lại câu thần chú “Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý
vững chắc về chủ quyền đối với Hoàng Sa” nhưng giới lãnh đạo CSVN không
hề nhắc đến công hàm, tưởng chừng như văn bản đó không phải là của họ.
Thứ Sáu 23-5-2014, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy Ban Biên Giới Quốc
Gia, trong cuộc họp báo với mục đích “làm rõ công thư của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng” đã đưa ra các lý luận để phản bác các quan điểm của Trung
Cộng.
Điều kiện quốc tế dẫn tới công hàm Phạm Văn Đồng
Trước 1958, Trung Cộng không có một quan điểm rõ ràng nào về lãnh hải. Nhà văn Trung Quốc Wei Wen-han nghiên cứu về lãnh hải nhắc lại cho đến tháng Sáu 1957 Trung Cộng vẫn chưa có một xác định nào về hải phận và thềm lục địa thuộc về Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Tháng 12 năm 1957, Nam Dương tuyên bố mở rộng lãnh hải từ 3 hải lý theo truyền thống mà hầu hết các quốc gia áp dụng sang 12 hải lý và được tính từ điểm ngoài cùng của các đảo thuộc lãnh thổ Nam Dương. Vì Nam Dương là quốc gia quần đảo, nếu tính như vậy, một vùng biển rộng lớn của vùng Nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương đều thuộc quyền kiểm soát của Nam Dương. Anh, Hòa Lan và nhiều quốc gia khác cùng lên tiếng phản đối. Trung Cộng chụp lấy thời cơ binh vực Nam Dương và ngày 4 tháng 9 năm 1958 công bố riêng một Bản tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc (Declaration on China’s Territorial Sea) với các điểm chính như mọi người đều biết: “Bề rộng của lãnh hải Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa sẽ là 12 hải lý” và “áp dụng tương tự đối với Đài Loan và các đảo chung quanh, Quần đảo Bành Hồ (Penghu), Quần đảo Trung Sa (Tungsha), Quần đảo Tây Sa (Hsisha), Quần đảo Chungsha, Quần đảo Nansha (Nam Sa), và các đảo khác thuộc Trung Quốc”.
Trước 1958, Trung Cộng không có một quan điểm rõ ràng nào về lãnh hải. Nhà văn Trung Quốc Wei Wen-han nghiên cứu về lãnh hải nhắc lại cho đến tháng Sáu 1957 Trung Cộng vẫn chưa có một xác định nào về hải phận và thềm lục địa thuộc về Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Tháng 12 năm 1957, Nam Dương tuyên bố mở rộng lãnh hải từ 3 hải lý theo truyền thống mà hầu hết các quốc gia áp dụng sang 12 hải lý và được tính từ điểm ngoài cùng của các đảo thuộc lãnh thổ Nam Dương. Vì Nam Dương là quốc gia quần đảo, nếu tính như vậy, một vùng biển rộng lớn của vùng Nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương đều thuộc quyền kiểm soát của Nam Dương. Anh, Hòa Lan và nhiều quốc gia khác cùng lên tiếng phản đối. Trung Cộng chụp lấy thời cơ binh vực Nam Dương và ngày 4 tháng 9 năm 1958 công bố riêng một Bản tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc (Declaration on China’s Territorial Sea) với các điểm chính như mọi người đều biết: “Bề rộng của lãnh hải Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa sẽ là 12 hải lý” và “áp dụng tương tự đối với Đài Loan và các đảo chung quanh, Quần đảo Bành Hồ (Penghu), Quần đảo Trung Sa (Tungsha), Quần đảo Tây Sa (Hsisha), Quần đảo Chungsha, Quần đảo Nansha (Nam Sa), và các đảo khác thuộc Trung Quốc”.
Công
tâm mà nói, bản tuyên bố của Trung Cộng trong thời điểm đó nhắm vào Mỹ
đang bảo vệ các tàu hàng Đài Loan trong các vùng đảo Kim Môn, Mã Tổ,
Bành Hồ hơn là các nước Đông Nam Á. Người soạn thảo bản tuyên bố của
Trung Cộng áp dụng phương pháp tính lãnh hải của Nam Dương và có tầm
nhìn Đại Hán nên đã đưa các đảo Tây Sa (Hsisha) tức Hoàng Sa và Nam Sa
(Nansha) tức Trường Sa trong vùng biển Đông vào. Chính phủ Mỹ tức khắc
bác bỏ bản tuyên bố của Trung Cộng và các chiến hạm Mỹ vẫn tiếp tục bảo
vệ an ninh cho các tàu hàng Đài Loan trong vùng 3 hải lý của đảo Kim
Môn, Bành Hồ chung quanh Đài Loan. Trung Cộng không dám bắn. Bộ quốc
phòng Mỹ đã lên kế hoạch tấn công Trung Cộng bằng bom nguyên tử. Để giữ
thể diện, Bành Đức Hoài tuyên bố ngưng bắn vào Kim Môn nếu tàu chiến Mỹ
ngưng bảo vệ tàu hàng Đài Loan. Mỹ chẳng những không đáp lại đòi hỏi của
Trung Cộng mà còn gởi Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles thăm Đài Loan
để bàn kế hoạch phòng thủ Đài Loan lâu dài.
Hai lý do Trần Duy Hải dùng để bác bỏ công hàm Phạm Văn Đồng
Thứ nhất. Công hàm Phạm Văn Đồng “hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.
Lý
luận này không thuyết phục được ai. Không cần phải đứng về phía Trung
Cộng mà chỉ một người có chút hiểu biết và dù đứng về phía Việt Nam cũng
phản bác lại dễ dàng. Đưa ra lý do không đề cập đến Hoàng Sa, Trường Sa
là một cách tự kết án mình. Bản tuyên bố của phía Trung Cộng ghi rõ
Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Cộng và Việt Nam đáp lại bằng cách
“ghi nhận và tán thành bản tuyên bố”. CSVN có nhiều cách để lấy lòng đàn
anh Trung Cộng mà vẫn giữ được chủ quyền đất nước. Chẳng hạn, Phạm Văn
Đồng chỉ nhấn mạnh đến sự ủng hộ của đảng và nhà nước CSVN đối với các
chính sách của Trung Cộng trong xung đột Đài Loan mà không nhắc nhở gì
đến Hoàng Sa, Trường Sa và coi như không biết đến “Bản tuyên bố về lãnh
hải của Trung Quốc”. May ra còn có thể cãi cọ được. Tiếc thay, lãnh đạo
đảng sợ viết như vậy chưa vừa lòng đàn anh và chưa tỏ bày hết lòng dạ
trung kiên, cắt cỏ ngậm vành của mình.
Không
giống thái độ của các nước Mỹ, Anh, Hòa Lan, CSVN tự nguyện đưa cổ vào
tròng. Không có một văn bản nào cho thấy Trung Cộng áp lực Việt Nam phải
đồng ý với bản tuyên bố lãnh hải của Trung Cộng. Không có tài liệu nào
cho thấy Trung Cộng đe dọa nếu CSVN không ủng hộ sẽ đưa quân sang “dạy
cho một bài học” hay cắt đứt viện trợ. Thời điểm năm 1958 vấn đề chủ
quyền Hoàng Sa, Trường Sa chưa phải là mối bận tâm hàng đầu của Trung
Cộng, tuy nhiên những người soạn thảo bản công bố chủ quyền biển của
Trung Cộng đã biết phòng xa. CSVN thì không. Nếu sự kiện được trình lên
toàn án quốc tế, không một quan tòa nào sơ đẳng đến mức đánh giá hai văn
bản một cách độc lập với nhau.
Phân
tích để thấy, lãnh đạo CSVN trong lúc phủ nhận giá trị của công hàm
Phạm Văn Đồng trước dư luận quốc tế, cũng đồng thời thừa nhận trước nhân
dân Việt Nam công hàm Phạm Văn Đồng là công hàm bán nước.
Lý do thứ hai cũng do Trần Duy Hải đưa ra “Hoàng Sa và Trường Sa cũng phù hợp với thực tế lúc đó hai quần đảo này nằm dưới vĩ tuyến 17 thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa”.
Lý do thứ hai cũng do Trần Duy Hải đưa ra “Hoàng Sa và Trường Sa cũng phù hợp với thực tế lúc đó hai quần đảo này nằm dưới vĩ tuyến 17 thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa”.
Trong
hai lý do, chỉ có lý do Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là có sức thuyết phục
về mặt pháp lý cũng như gây được cảm tình của thế giới tự do. Tuyên cáo
của chính phủ VNCH công bố ngày 14 tháng Hai năm 1974 xác định chủ quyền
trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như Bạch thư của Bộ Ngoại
Giao VNCH đầu năm 1975 đanh thép bác bỏ giá trị pháp lý của công hàm
Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng không thể công nhận những gì không thuộc
lãnh thổ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. VNCH là một quốc gia có chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về VNCH đã được
quốc tế công nhận. Tuy nhiên, lý luận VNCH có gây được cảm tình nhân
loại và có thể dùng để tranh luận trong bàn hội nghị cũng chưa thắng
được bởi vì VNCH không còn là một thực thể chính trị.
Phản bác của nhà nghiên cứu Trung Quốc
Ngô
Viễn Phú, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Pháp luật Việt Nam và từng du học
tại Việt Nam đã bác bỏ các luận điểm của CSVN. Ngô Viễn Phú cho rằng “Ở
thời điểm đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ tốt với
miền Bắc, trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp
pháp duy nhất cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm
1950, thể theo đề nghị của chính quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ
ngoại giao chính thức với miền Bắc, hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội
và Bắc Kinh).”
Đàn
anh Cộng Sản Trung Quốc công nhận đàn em CSVN là chuyện đương nhiên và
thể theo lời yêu cầu của CSVN chứ không phải của VNCH. Quan hệ ngoại
giao giữa hai nước thay đổi theo từng thời kỳ. Singapore là một nước nhỏ
nhưng mãi đến 1990 mới công nhận Trung Cộng. Liên Xô là một nước lớn
nhưng Mỹ bắt chờ 16 năm sau cách mạng CS Nga mới công nhận Liên Xô. Thời
điểm 1933 Nhật bắt đầu bành trướng ở phương Đông nên Mỹ cần làm dịu
căng thẳng ở phương Tây, nếu không Tổng thống Franklin Roosevelt còn cô
lập Liên Xô thêm nhiều năm nữa.
Việc “Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam”
cũng chỉ giá trị giữa miền Bắc CS và Trung Cộng không ảnh hưởng gì với
quốc tế và không liên hệ gì đến nước thứ ba, trong trường hợp này là
VNCH. Trung Cộng có quyền công nhận miền Bắc Cộng Sản và không công nhận
VNCH về mặt ngoại giao nhưng vẫn phải thừa nhận VNCH là một quốc gia
độc lập được quốc tế và các quốc gia tham dự hội nghị Geneva, trong đó
có Trung Cộng tham dự và ký kết.
Trong
khi phản bác Ngô Viễn Phú lại cũng dựa trên lý luận CSVN đã xâm lược
VNCH và không có quyền “thừa kế” lãnh thổ của nước bị chiếm: “Nếu
theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam thì, miền
Bắc là “bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy, sẽ có nghĩa là
thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những
cái gọi là “bù nhìn” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc
“giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm
lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế
thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì,
chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc
trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền
miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần
đảo Nam Sa.”
Về
mặt công pháp quốc tế cũng như cả lãnh đạo CSVN lẫn phe phản bác lý
luận của CSVN đều công nhận rằng chủ nhân thật sự của Hoàng Sa vẫn là
VNCH. Do đó, điều kiện tiên quyết, chọn lựa duy nhất và con đường thích
hợp nhất không chỉ để giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với
Trung Công mà mở đường cho tự do, dân chủ và thịnh vượng là tập trung
vào công cuộc phục hưng VNCH.
Lối thoát VNCH
Đọc
tới đây, một số độc giả có thể sẽ dừng lại vì cho người viết không
tưởng, hư cấu hay chủ trương đi lại một vết xe đổ. Không. Phục hưng VNCH
không phải là đi lùi vào quá khứ mà hướng tới tương lai, không phải lập
lại mà thăng tiến cao hơn. VNCH không phải là vết nhăn trên trán của
thế hệ cha chú đã qua mà là hành trang và ước vọng của tuổi trẻ ngày
nay. Chủ nghĩa CS mới thật sự là lạc hậu và việc cáo chung của chủ nghĩa
này chỉ là vấn đề thời gian. Thác nước Niagara không thể nào chảy
ngược. Không phải người viết, phần đông độc giả mà ngay cả các lãnh đạo
CSVN cũng không thể chối cãi sự thật đó. Chủ nghĩa CS còn kéo dài ở Á
Châu cho đến hôm nay là nhờ họ biết núp bóng sau tấm bình phong chống
thực dân đế quốc. Tấm bình phong do họ dựng lên đang rã mục. Năm 1954
tại miền Bắc, nhiều người thật sự tin rằng đảng CS và dân tộc Việt Nam
là một, như nước với sữa, như máu với thịt, hay như Hồ Chí Minh nói
“đảng là con nòi của dân tộc”. Năm 1975, khi đối diện với miền Nam từ
lối sống đến phương tiện hoàn toàn khác với những gì bộ máy tuyên truyền
CS đã thêu dệt nhiều người bắt đầu nhận ra đảng đã lợi dụng máu xương
của những người ngã xuống vì khát vọng hòa bình, vì mơ ước đoàn viên, vì
cơm no áo ấm chỉ để CS hóa toàn đất nước. Và hôm nay, 2014, đông đảo
nhân dân Việt Nam đã hiểu rõ cơ chế độc tài là trở lực duy nhất trên con
đường dẫn đến một Việt Nam tự do, dân chủ, văn minh. Cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ toàn diện và triệt để tại Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian.
Và
khi đó, thể chế nào khác sẽ thay thế chế độ CS nếu không phải là thể
chế cộng hòa? Thực tế chính trị rất hiển nhiên đó đang là một khải hoàn
ca tại hầu hết các quốc gia cựu Cộng Sản như Cộng hòa Czech, Cộng hòa
Hungary, Cộng hòa Ba Lan, Cộng hòa Lithuania, Cộng hòa Estonia, Cộng hòa
Mông Cổ v.v… Tiến trình dân chủ hóa diễn ra nhanh hay chậm tùy theo
điều kiện của mỗi nước nhưng là hướng phát triển của văn minh nhân loại
trong thời đại này.
Giá trị của VNCH
Trong
suốt 60 năm từ 1954, bộ máy tuyên truyền của đảng đã không ngừng vẽ
trong nhận thức của bao nhiêu thế hệ Việt Nam một VNCH chẳng khác gì một
con ma, ghê sợ, hung dữ và tội lỗi nhất trong thế gian này. Suốt 60 năm
qua, VNCH là hiện thân của mọi thứ tội ác. Trong nhận thức không chỉ
tuổi trẻ Việt Nam sinh sau 1975 mà ngay cả các tầng lớp cán bộ, đảng
viên, nhà văn, nhà thơ đều được dạy để biết VNCH có ba đặc điểm lớn là
“tham nhũng”, “trấn áp” và “ôm chân đế quốc Mỹ”.
Trong
tiểu luận “Khám nghiệm một hồn ma” trên Talawas 8 năm trước người viết
đã có dịp phân tích thể chế cộng hòa tại miền Nam. Xin trích một phần
bài viết đó ở đây để chia sẻ với các độc giả chưa đọc.
Miền Nam trước 1975 có tham nhũng không? Chẳng những có mà còn vô cùng trầm trọng.
Miền Nam có đàn áp biểu tình, đối lập không? Có, không chỉ đàn áp một lần mà nhiều lần, không chỉ một năm mà nhiều năm.
Miền
Nam trước 1975 có sống bám vào viện trợ Mỹ không? Có, không chỉ 300
triệu dollars “viện trợ đặc biệt” như nhiều người hay nhắc mà nhiều tỉ
đô la.
Vâng,
tất cả điều đó đều có. Chế độ cộng hòa tại miền Nam Việt Nam ra đời và
lớn lên trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trong đó các nguyên
tắc dân chủ đã trở thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ hai
lưỡi đó đã đâm vào thân thể của chế độ cộng hòa hàng trăm vết thương đau
đớn từ ngày mới ra đời cho đến gục xuống trong tức tưởi. Miền Nam có
tất cả sắc thái của một xã hội dân chủ đang từng bước đi lên. Dân chủ
không phải là lô độc đắc giúp một người trở nên giàu sang trong một sớm
một chiều mà là quá trình tích lũy vốn liếng từ những chắt chiu của mẹ,
tần tảo của cha, thăng trầm và thử thách của cả dân tộc.
Ngay
cả những quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ, Nam Hàn cũng phải bước qua
con đường đầy máu nhuộm để có được nền dân chủ như hôm nay. VNCH cũng
vậy. Miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị, có
ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt
động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong
sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân biểu,
nghị sĩ đối lập chân chính. Như một viên ngọc nằm trong lòng lớp rong
rêu của vỏ con trai, trên tất cả, giá trị đích thực của VNCH không nằm
trong tham nhũng, trấn áp và đồng đô la Mỹ mà nằm trong Hiến pháp VNCH
đặt nền tảng trên một thể chế dân chủ do dân và vì dân.
Lời
mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch Quốc hội Lập hiến Phan Khắc Sửu
ký ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt Nam là một chế độ cộng hòa “Dân chủ độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân, chủ quyền thuộc về toàn dân” phát xuất từ “Ý
thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và
chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý
chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập
một chánh thể cộng hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết
dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân chủ trong công
bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.”
Ngoài
phần mở đầu hùng hồn nêu trên, chuyên chở trong suốt 9 chương và 117
điều của Hiến pháp 1967 là nền tảng của chế độ cộng hòa, qua đó, quyền
lãnh đạo đất nước như chỉ rõ trong điều 3, được phân quyền rõ rệt: ”Ba
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân nhiệm và phân
quyền rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp
và điều hòa để thực hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn
bản Tự do, Dân chủ và Công bằng xã hội”.
Phục
hưng VNCH không có nghĩa là phục hưng chính quyền miền Nam. Chính thể
không đồng nghĩa với một chính quyền và do đó không sống hay chết theo
một chính quyền. Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của bao nhiêu
người và ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng
chung cho cả dân tộc. Sau 39 năm, VNCH như một mạch nước chảy ngầm trong
rặng núi, đau đớn, vất vả, khó khăn nhưng không bao giờ ngừng chảy. Nếu
ai cho tôi khoác lác hãy gác qua bên mặc cảm Bắc Nam, định kiến xã hội,
khuynh hướng chính trị, đảng phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu khuynh, thù
hận riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng hòa trên trang
đầu của Hiến pháp VNCH mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội dung thôi,
tôi tin người đọc dù Nam hay Bắc, dù trong hay ngoài nước, sẽ công nhận
đó chính là mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần phải đạt đến. Công nhận các
giá trị được đề ra trong hiến pháp VNCH không có nghĩa là đầu hàng,
chiêu hồi. Không. Không ai có quyền chiêu hồi ai hay kêu gọi ai đầu
hàng. Đây là cuộc chiến mới, cuộc chiến giữa dân tộc và phản dân tộc,
giữa cộng hòa và cộng sản, giữa tự do và độc tài, giữa nhân bản và toàn
trị. Mỗi người Việt sẽ chọn một chỗ đứng cho chính mình phù hợp với
quyền lợi bản thân, gia đình, con cháu và sự sống còn của dân tộc.
Hiến
pháp VNCH có thể chưa hoàn chỉnh nhưng là một văn kiện tham khảo cần
thiết để kiến tạo một Việt Nam dân chủ cường thịnh. Hạt giống do Phan
Chu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An
Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng thế kỷ
trước đã mọc và lớn lên trong mưa bão. Hạt giống dân chủ khơi mầm tại
miền Nam cũng không chỉ bắt đầu sau khi đất nước bị chia đôi 1954 mà đã
có từ hàng trăm năm trước.
Lợi
dụng chính sách Nam kỳ tự trị của thực dân, các nhà cách mạng tại miền
Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng phương pháp đấu tranh nghị trường, tiếp
cận các tư tưởng dân chủ Tây phương, mở mang dân trí làm nền tảng cho
chế độ cộng hòa sau này. Đó không phải là sản phẩm của Tây hay Mỹ mà là
vốn quý của dân tộc đã được đổi bằng máu, mồ hôi, nước mắt của nhiều
người. Đó không phải là tài sản của riêng miền Nam mà của tất cả những
người Việt cùng ôm ấp một ước mơ dân chủ. Những ai biết gạt bỏ định kiến
Bắc Nam, tháo gỡ lớp màn “căm thù Mỹ Ngụy” ra khỏi nhận thức, sẽ thấy
đó chính là hành trang cần thiết cho nỗ lực mưu cầu một xã hội công bằng
và tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau. Không cần phải tìm giải pháp từ
Miến Điện, Nam Phi, Ai Cập, Libya hay tìm chân lý ở Anh, ở Mỹ mà ngay ở
đây, giữa lòng đất nước Việt Nam.
Phục
hưng VNCH không có nghĩa là phủ nhận công lao của những người đã hy
sinh trong chiến tranh chống thực dân Pháp. Như kẻ viết bài này đã nhấn
mạnh nhiều lần, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính
nghĩa. Đó là cuộc đấu tranh đầy gian khổ nhưng rất anh hùng của một dân
tộc bị nô lệ đã đứng lên chống lại một thực dân tàn bạo. Việc tham gia
vào đảng phái, kể cả việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người
Việt Nam trong thời kỳ chống Pháp, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm
mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn. Những
người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc phao
để đưa dân tộc sang bờ độc lập nhưng đối với đảng CS chiếc phao lại
chính là dân tộc.
Nhiều
người yêu nước chọn tham gia vào đảng CS nhưng bản thân đảng CS như một
tổ chức chính trị dựa trên ý thức hệ CS chưa bao giờ là một đảng yêu
nước. Những nông dân hiền hòa chất phác, những công nhân đầu tắt mặt tối
làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh
phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc
phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà còn
gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay. Dù sao, người yêu nước bằng tình
yêu trong sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho một chủ nghĩa, một ý
thức hệ ngoại lai vong bản hay cho một quyền lợi đế quốc nào sẽ không
bao giờ chết, không bao giờ bị lãng quên. Lịch sử sẽ đánh giá, tổ quốc
sẽ ghi công họ một cách công bằng.
Phục
hưng VNCH không có nghĩa là tái thực thi hiệp định Paris. Dân tộc Việt
Nam là một thực thể thống nhất và tất cả các hòa ước Patenôtre, hiệp
định Geneva hay hiệp định Paris đều là những chiếc còng của thực dân và
đế quốc áp đặt lên đầu lên cổ dân tộc Việt Nam trong giai đoạn Việt Nam
yếu kém và phân hóa. Trước 1975, trong đáy lòng của bất cứ một người
Việt yêu nước nào cũng mong một ngày dân tộc Việt Nam từ Ải Nam Quan đến
Mũi Cà Mau sẽ được đoàn viên trong tự do, dân chủ và thịnh vượng. Tuy
nhiên, ngoài trừ lãnh đạo CSVN chủ trương CS hóa toàn cõi Việt Nam bằng
súng đạn của Nga, Tàu, không ai muốn đoàn viên phải trả bằng giá của
nhiều triệu sinh mạng người dân vô tội, đốt cháy một phần đất nước, để
lại một gia tài nghèo nàn lạc hậu cho con cháu. Hôm nay, dù không tự
mình chọn lựa, dân tộc Việt Nam cũng đã là một và không có một thế lực
nào làm Việt Nam phân ly lần nữa.
Lịch
sử Việt Nam như một dòng sông, có khi cuồn cuộn lúc âm thầm, có chỗ sâu
chỗ cạn nhưng chưa bao giờ ngưng chảy. Đó là sự thật. Khoảng thời gian
từ khi Mã Viện, danh tướng nhà Đông Hán, đánh bại Hai Bà Trưng (năm 43)
đến khi Lý Nam Đế đánh bại quân Lương Vũ Đế và dựng nước Vạn Xuân (năm
543) là tròn 500 năm. Biết bao nhiêu lớp người đã sinh ra và chết đi
trong suốt 5 thế kỷ sống trong bóng tối nô lệ nhưng sức sống Việt Nam
vẫn tồn tại và lớn lên. Việt Nam là một trong số rất ít quốc gia trên
thế giới trong đó người dân gọi nhau bằng hai tiếng đồng bào thân thương
và trìu mến. Đối mặt với một kẻ thù đông hơn nhiều và mạnh hơn nhiều,
chưa bao giờ sức mạnh tổng hợp của 90 triệu người Việt trong nước và 3
triệu người Việt ở hải ngoại cần thiết như hôm nay. Đảng CS có 3 triệu
đảng viên nhưng đa số trong số 3 triệu người này trong thực tế cũng chỉ
là nạn nhân của một tập đoàn lãnh đạo đảng tham quyền và bán nước. Chỉ
có sức mạnh toàn dân tộc phát triển trên cơ chế dân chủ tự do mới mong
thắng được Trung Cộng và mọi kẻ thù có âm mưu xâm lược Việt Nam. Tổ tiên
Việt Nam đã làm được rồi các thế hệ Việt Nam ngày nay cũng sẽ làm được.
Người
viết biết rằng, đối với một số người Việt đã bị bộ máy tuyên truyền đầu
độc quá lâu và các bạn trẻ bị nhào nặn hoàn toàn trong hệ thống giáo
dục một chiều CS, để có một nhận thức đúng về lịch sử là một quá trình
đấu tranh tư tưởng khó khăn.
Nếu
vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn thẳng vào thực tế đất
nước sau 39 năm vẫn là một nước lạc hậu về mọi mặt từ kinh tế, chính
trị, quốc phòng và đời sống. Việt Nam còn thua xa những nước ở châu Phi
như Ghana, Sierra Leone, Namibia vì những quốc gia đó còn nghèo nhưng
hãnh diện vì chính phủ họ do nhân dân họ bầu lên. Nếu vậy, tạm gác qua
chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn vào cách giải quyết tranh chấp Hoàng Sa,
Trường Sa với Trung Cộng của lãnh đạo CSVN. Ngoài những lời phản đối
đọc như kinh nhật tụng họ không có và cũng không thể có một chọn lựa dứt
khoát nào chỉ vì quyền lợi trước mắt của một nhóm người lãnh đạo được
đặt lên trên quyền lợi lâu dài của đất nước. Như người viết đã trình bày
trong bài trước, rồi mai đây, sau trận đánh ghen HD-981, lãnh đạo CSVN
lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi
tình đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng CS
theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các vùng biên giới,
trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của người lính biển
Việt Nam sẽ không ngừng chảy. Thảm trạng xã hội Việt Nam hôm nay, những
lạc hậu kinh tế hôm nay, những yếu kém về quốc phòng hôm nay, những cô
đơn trong bang giao quốc tế hôm nay là những câu trả lời cho những ai
còn do dự, còn một chút tin tưởng nào đó ở lãnh đạo đảng CSVN.
Sau
hải chiến Hoàng Sa đầy hy sinh xương máu, VNCH lần nữa lại được lịch sử
giao trọng trách đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa trong tay Trung Cộng. Cuộc
tranh đấu mới sẽ khó khăn nhưng là con đường đúng nhất của dân tộc
trong cùng hướng phát triển của nhân loại. Giống như hầu hết các
nước cựu CS ở Đông Âu và khối Liên Xô, thể chế Cộng Hòa là chọn lựa
đương nhiên và dứt khoát. Các quốc gia sẽ bình đẳng trước công pháp quốc
tế. Những khẩu hiệu tuyên truyền rất sến như “16 chữ vàng”, “hữu nghị
Việt Trung” sẽ bị chôn sâu theo xác của ý thức hệ CS. Dân tộc Việt Nam
sẽ vượt qua những khó khăn để phát triển thành một quốc gia hiện đại về
cả kinh tế lẫn quốc phòng. Các nhà lãnh đạo VNCH trong cuộc đấu tranh
mới trên mặt trận ngoại giao sẽ hành xử xứng đáng với tư cách của một
cấp lãnh đạo chính danh, thay mặt cho một nước VNCH thống nhất, dân chủ,
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chắc chắn sẽ được sự ủng hộ
của đại đa số con người yêu chuộng tự do, hòa bình trên thế giới. Giành
lại Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là một cuộc tranh đấu gian nan, gai
góc, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng chính
nghĩa và chân lý cuối cùng sẽ thắng.
Trần Trung Đạo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét